Trong đó, Chính phủ đóng vai trò là nhạc trưởng, Cơ quan quản lý là nhạc công và các doanh nghiệp là ca sĩ”. Ví von như vậy, trong vai trò là một doanh nghiệp (DN) có trách nhiệm, ông Trần Bắc Hà - Chủ tịch HĐQT Ngân hàng BIDV đã đóng góp một số ý kiến góp phần đưa DN Việt Nam thực sự trở thành động lực phát triển của đất nước.
Hoàn thiện thể chế, thúc đẩy DN trở thành động lực
Đại hội Đảng lần thứ XII đặt ra 4 yêu cầu. Thứ nhất, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện các cơ chế chính sách để hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động của các DN. Cụ thể, các cơ chế cần được thể chế hóa bằng Luật, nhưng cần đảm bảo phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế cũng như các Hiệp định FTA mà Việt Nam đã ký kết, để đến năm 2018, Việt Nam chính thức được công nhận là nền kinh tế thị trường đầy đủ. Đồng thời, Nhà nước cần quan tâm ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ trực tiếp, hiệu quả cho DN, nhất là về nhân lực/lao động, tài chính, khoa học công nghệ, thương mại...
Thứ hai, phải đẩy mạnh việc minh bạch, công khai, trong đó có niêm yết công khai các quy định, chính sách, thiết lập các cổng thông tin điện tử, đẩy mạnh thực hiện các thủ tục hành chính điện tử. Quy định cụ thể thời gian tối đa đối với các thủ tục hành chính và trách nhiệm trực tiếp của người thực thi, có chế tài cụ thể xử phạt hành chính bằng tiền, thi hành kỷ luật đối với các hành vi sách nhiễu, hạch sách, tự đưa ra các quy định.
Thứ ba, từng bước hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh, các tập đoàn kinh tế tư nhân của quốc gia. Theo đó, Chính phủ cần xây dựng chiến lược cụ thể khuyến khích phát triển, hình thành các tập đoàn kinh tế lớn của quốc gia. Có chính sách hỗ trợ thúc đẩy phát triển các tập đoàn kinh tế cũng như có cơ chế giám sát, kiểm tra, đảm bảo tính công khai, minh bạch, quản trị DN theo thông lệ hoạt động của các tập đoàn kinh tế.
Thứ tư, cần đổi mới trong tư duy hợp tác kinh doanh phát triển. Các DN cần thay đổi tư duy từ “Thắng - Thua” sang “Hai bên cùng thắng” trên quan điểm vừa hợp tác vừa cạnh tranh, tăng cường liên kết - kết nối, không phân biệt quốc tịch, tôn giáo, văn hóa... mở rộng quan hệ hợp tác, chia sẻ thông tin thị trường nhưng vẫn đảm bảo tính cạnh tranh.
Theo đó, Ngân hàng BIDV với vai trò là một định chế tài chính đưa ra bốn nhóm giải pháp và cam kết đồng hành.
Nhóm giải pháp tăng cường vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh
Đến hết năm 2015, nguồn vốn tín dụng ngân hàng đạt 4.667 nghìn tỷ đồng tương đương với 100% GDP (so với mức bình quân ASEAN khoảng 70% GDP). Đồng thời, trong 1.367,2 nghìn tỷ tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2015, ước tính 48% đến từ nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Theo đó, dòng vốn tín dụng có vai trò vô cùng quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Theo tính toán, để GDP tăng trưởng ở mức 6,5-7% như mục tiêu (năm 2016 là 6,7%), nguồn vốn tín dụng cần tăng ở mức 16-18%.
Để đạt mục tiêu trên, cần có những biện pháp bổ sung để tăng cường nguồn vốn đầu tư phát triển. Theo đó, cần ba nhóm giải pháp chính là:
Thứ nhất, tiếp tục xem xét tăng vốn đầu tư và giảm lãi suất cho vay thêm 0,5% - 1%. Theo đó, có thể thực hiện đồng bộ các giải pháp như: NHNN xem xét điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc; Giảm lượng phát hành trái phiếu chính phủ; Chính phủ và NHNN đẩy nhanh cơ chế, thủ tục tái cấp vốn/cấp bù lãi suất nhằm tăng hiệu quả quay vòng vốn, đồng thời đẩy nhanh xử lý nợ xấu giúp các ngân hàng có thêm vốn để phục vụ doanh nghiệp; tổ chức tín dụng cũng cần thực hiện tiết giảm chi phí quản lý hoạt động; Đẩy nhanh tái cơ cấu các tổ chức tín dụng (TCTD) yếu kém còn lại, nhằm hạn chế cạnh tranh lãi suất huy động vốn không lành mạnh; Dự thảo sửa đổi Thông tư 36 quy định tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay; Cuối cùng là các NHTM tạo điều kiện tiếp cận vốn nhưng các DN cũng cần đảm bảo các điều kiện theo quy định về cho vay như Tài sản đảm bảo, Kế hoạch, phương án kinh doanh; Báo cáo tài chính kiểm toán…
Thứ hai, tiếp tục thực hiện tiết giảm chi tiêu và đa dạng hóa đầu tư công nhằm (i) đẩy mạnh mô hình hợp tác công tư (PPP) đối với các lĩnh vực không hạn chế tư nhân, đồng thời có tính đột phá, lan tỏa như nông nghiệp, công nghệ sinh học, công nghiệp công nghệ, đầu tư kết cấu hạ tầng...; (ii) nghiên cứu phương án thành lập mô hình Quỹ/Công ty Tài chính phát triển kết cấu hạ tầng như mô hình của một số nước Mỹ, Pháp, Nhật Bản nhằm huy động tài chính từ nhiều nguồn khác nhau, cung cấp vốn cho các dự án một cách trực tiếp hoặc thông qua các TCTD. Nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng, giao thông giai đoạn 2016 - 2020 khoảng 48 tỷ USD, trong đó vốn cho PPP & BOT cần khoảng 23 tỷ USD, đề nghị các TCTD Việt Nam tham gia từ 70% - 80%.
Thứ ba, phát triển cân bằng, đa dạng thị trường tài chính. Hiện thị trường này như kiềng ba chân khập khiễng, phụ thuộc quá nhiều vào hệ thống các TCTD, trong khi thị trường chứng khoán và trái phiếu chưa phát triển. Với tổng tài sản hệ thống ngân hàng chiếm tới 76% hệ thống tài chính (so với bình quân ASEAN khoảng 42%), tín dụng ngân hàng bằng 100% GDP (bình quân ASEAN là 70% GDP); trong khi tỷ lệ vốn hóa chứng khoán Việt Nam bằng khoảng 34% GDP (bình quân ASEAN 66% GDP), tỷ lệ vốn hóa thị trường trái phiếu của Việt Nam chỉ bằng 22% GDP (bình quân ASEAN là 54%). Rõ ràng cần phát triển mạnh thị trường chứng khoán và trái phiếu, tạo kênh dẫn vốn trung-dài hạn cho nền kinh tế.
Trong khi chờ đợi các chính sách từ Chính phủ, NHNN, BIDV cam kết ngay từ 29/4/2016 sẽ thực hiện giảm 0,5% lãi suất đối với các khoản vay vốn ngắn hạn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, và mức cho vay trung và dài hạn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh tối đa không quá 10%. Như vậy, BIDV sẽ giảm doanh thu khoảng 400 - 450 tỷ để chia sẻ, hỗ trợ các DN. |
Nhóm giải pháp xử lý triệt để vấn đề nợ xấu
IMF đánh giá số nợ có vấn đề của Việt Nam hiện nay là hơn 12%. Theo số liệu trong nước, tổng nợ có vấn đề khoảng 11% dư nợ toàn nền kinh tế. Để giải quyết tình trạng này, BIDV đề xuất chủ trương sớm thành lập thị trường mua bán nợ đã được Thủ tướng CP chỉ đạo từ tháng 2/2013. Đề nghị cần đẩy nhanh tiến độ ban hành Nghị định về thị trường mua bán nợ và tài sản theo hướng gỡ bỏ tối đa các rào cản, tạo điều kiện thu hút các tổ chức, cá nhân có thể tham gia vào thị trường mua bán nợ.
Ngoài ra, cần có cơ chế đặc thù cho Công ty Quản lý Tài sản (VAMC) và chỉnh sửa Quyết định 618/QĐ-NHNN theo hướng mở rộng đối tượng được mua bán nợ theo giá thị trường của VAMC.
Tái cơ cấu và nâng cao năng lực các TCTD
Theo tính toán, để tăng trưởng GDP ở mức 6,5-7%/năm thì tăng trưởng tín dụng cần ở mức 16-18%. Để đạt mức tăng trưởng tín dụng này thì tăng trưởng vốn tự có của các ngân hàng phải ở mức 19-22% mới đảm bảo hệ số an toàn vốn (CAR). Điều này không khả thi đối với các NHTM Nhà nước vì từ năm 2013, các NHTM do Nhà nước nắm cổ phần chi phối không được sử dụng nguồn lợi nhuận sau thuế để tăng vốn.
Để giải quyết vấn đề này, BIDV đề xuất giải pháp: Cho phép các NHTMNN để lại cổ tức, thặng dư cho chuyển nhượng phần sở hữu của Nhà nước, thặng dư từ các khoản thoái vốn đầu tư làm nguồn tăng vốn cho ngân hàng; Đẩy mạnh thực hiện cổ phần hóa và giảm bớt tỷ lệ sở hữu của Nhà nước tại các NHTM sở hữu nhà nước, hiện đang ở mức 65% và trong lộ trình 5 năm tới giảm về mức 51%; Riêng với những TCTD gặp khó khăn về tài chính, đề nghị Chính phủ coi đây như khoản đầu tư dưới hình thức bơm một phần vốn tạm thời từ nguồn lợi nhuận để lại của Nhà nước để đảm bảo các TCTD này đáp ứng yêu cầu về an toàn vốn.
Thí điểm phát hành Trái phiếu Chính phủ hàng hóa
Bộ Tài chính triển khai thí điểm chương trình phát hành trái phiếu hàng hóa đối tượng nhắm đến là các doanh nghiệp sản xuất xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng..., quy mô thí điểm tương đương khoảng 2 triệu tấn xi măng và 200.000 tấn sắt thép. Mục tiêu là phục vụ chương trình phát triển kinh tế nông thôn tại các tỉnh đặc biệt nghèo như Lai Châu, Điện Biên, Quảng Trị...