Các đại biểu chủ trì buổi họp báo. (Ảnh: G.T) |
Theo đánh giá của World Bank, năm 2019 có thể coi là một năm tương đối tốt đẹp đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong bối cảnh bất định tăng lên trên toàn cầu, Việt Nam vẫn nằm trong số những nền kinh tế tăng trưởng cao nhất trên thế giới với tốc độ tăng trưởng GDP ước đạt xấp xỉ 6,8%, cao gần gấp ba lần so với tốc độ bình quân của thế giới (2,6%).
Bên cạnh đó, nợ công giảm gần 8 điểm % GDP so với năm 2016 và thương mại thặng dư liên tiếp bốn năm qua. Tăng trưởng GDP được duy trì nhờ vào khu vực kinh tế đối ngoại vững mạnh, với xuất khẩu dự kiến tăng 8% trong năm 2019 - cao hơn gần 4 lần so với bình quân trên thế giới.
Cũng theo World Bank, Việt Nam tiếp tục là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Bình quân dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cam kết gần 3 tỉ USD mỗi tháng. Song song với đó, tiêu dùng cá nhân của các hộ gia đình là một yếu tố ngày càng quan trọng đóng góp cho tăng trưởng GDP khi tầng lớp trung lưu đang lớn mạnh và mức lương tăng lên. Đầu tư của các doanh nghiệp ở khu vực tư nhân cũng tăng ở mức 17% so với cùng thời kỳ.
Triển vọng trước mắt và trong trung hạn là tích cực khi WB dự báo GDP tăng trưởng quanh mức 6,5% trong những năm tới. Các yếu tố căn bản của nền kinh tế Việt Nam vẫn vững vàng, Chính phủ đã tạo được dư địa tài khóa nhất định thông qua chính sách tài khóa thận trọng.
Tuy nhiên, theo báo cáo của World Bank, Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn miễn dịch với các cú sốc bên ngoài, với minh chứng là tăng trưởng xuất khẩu giảm từ 21% xuống còn 8% từ năm 2017 đến năm 2019. Tăng trưởng xuất khẩu giảm rõ rệt hơn khi nhìn vào các thị trường xuất khẩu ngoài Mỹ. Tăng trưởng tại các thị trưởng này chỉ tăng 3,6% trong 11 tháng đầu năm 2019. FDI vào các cơ sở sản xuất kinh doanh mới cũng tăng chậm lại 30% so với hai năm trước đó, kể cả sau khi đã tính đến sự tăng trưởng trong đầu tư qua kênh mua bán sát nhập (M&A).
Xét những rủi ro bên ngoài nêu trên, đồng thời tìm động lực tăng trưởng bổ sung cho nền kinh tế, WB khuyến nghị, Việt Nam cần ưu tiên phát triển khu vực tư nhân vững mạnh và năng động. Hiện tại, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động ở thị trường trong nước vẫn đang phải đối mặt với những trở ngại lớn, hạn chế sự phát triển.
Theo Giám đốc Quốc gia của WB tại Việt Nam Ousmane Dione, nếu Việt Nam muốn tiếp tục quỹ đạo tăng trưởng nhanh, hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao trong những thập kỷ tới, quốc gia này cần phải xử lý những hạn chế về huy động tài chính cho doanh nghiệp cần nhận được sự quan tâm cao nhất của các nhà hoạch định chính sách.
Báo cáo cũng cho rằng, Việt Nam cần phát triển các thị trường vốn, vận hành để làm nền tảng cho sự thịnh vượng của Việt Nam trong tương lai. Theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm cả ở khu vực Đông Á, thị trường cổ phiếu và trái phiếu hoạt động tốt có thể giúp huy động vốn cho sản xuất kinh doanh trong nước, bổ sung cho nguồn vốn vay từ hệ thông ngân hàng và đa dạng hóa các nguồn huy động vốn. Điều này cũng góp phần nâng cao khả năng chống chịu của toàn bộ hệ thống tài chính, nhờ đảm bảo thanh khoản sâu hơn và đa dạng hóa được rủi ro.
Dù thị trường vốn ở Việt Nam đã phát triển mạnh trong những năm qua, nhưng vẫn còn nhỏ so với Thái Lan và Malaysia lần lượt ở mức từ 1,5 đến 2 lần và vẫn chủ yếu do một vài tổ chức lớn chi phối.
Trước tình trạng đó, World Bank chỉ ra năm lĩnh vực mà các nhà hoạch định chính sách cần quan tâm đề đẩy mạnh sự phát triển của các thị trường vốn, đó là: hiện đại hóa nền tảng quy phạm pháp luật về thị trường vốn; cải thiện quản trị và công bố thông tin; mở rộng mạng lưới các nhà đầu tư; phát triển các sản phẩm sáng tạo và tăng cường vai trò của Chính phủ trong phát triển các nguồn huy động tài chính dài hạn.