📞

Cảnh báo gia tăng bất bình đẳng giới

23:20 | 04/06/2016
Nguy cơ này sẽ xảy ra nếu Việt Nam không tăng cường cung cấp các cơ hội công việc tốt hơn cho phụ nữ và hỗ trợ giảm thiểu vai trò của phụ nữ trong các công việc chăm sóc gia đình không được trả lương.

Báo cáo nghiên cứu “Hướng tới Bình đẳng giới ở Việt Nam: Để tăng trưởng bao trùm có lợi cho phụ nữ” vừa được công bố tại Hà Nội ngày 3/6. Báo cáo do Cơ quan Liên hợp quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho Phụ nữ (UN Women) và Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã Hội Việt Nam thực hiện, với sự hỗ trợ của Chính phủ Australia và Phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam.

Phát biểu tại Hội thảo công bố báo cáo, PGS.TS Đặng Nguyên Anh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam khẳng định, việc công bố báo cáo nghiên cứu là một minh chứng sinh động cho sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức quốc tế và trong nước đối với sự nghiệp đấu tranh cho bình đẳng giới ở Việt Nam. Theo ông, để đạt được bình đẳng giới thực sự cho phụ nữ thì các chính sách phải đảm bảo được tính bao trùm xã hội, trong đó đặc biệt chú ý đến phụ nữ và các nhóm dễ bị tổn thương.

Báo cáo nghiên cứu được công bố sau một năm thu thập số liệu và phân tích. (Nguồn: UN Women)

Là báo cáo toàn diện đầu tiên phân tích nền kinh tế thông qua lăng kính giới, nghiên cứu này đánh giá mô hình tăng trưởng kinh tế hiện nay của Việt Nam, cho thấy mặc dù phụ nữ đang góp một phần lớn trong phát triển kinh tế, việc đạt được mô hình tăng trưởng bao trùm vẫn là một thách thức đối với Việt Nam. Nếu những lợi ích của tăng trưởng kinh tế được phân bổ không đều và quản lý không tốt, quá trình hội nhập có thể duy trì sự tách biệt về giới trên thị trường lao động, đồng thời làm gia tăng tình trạng dễ bị tổn thương của lao động nữ và duy trì khoảng cách tiền lương giữa hai giới.

Tại đây, Phó Đại sứ Australia Layton Pike nhấn mạnh, Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng với quốc tế. Sự tham gia của Việt Nam trong những hiệp định thương mại mới sẽ mở ra hàng loạt cơ hội tăng trưởng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong các ngành sản xuất, dệt may và điện tử. Tuy nhiên, kết quả tăng trưởng trong việc làm cho đến nay chủ yếu tập trung vào các công việc không đòi hỏi tay nghề. Các cơ hội về đào tạo, phát triển kỹ năng và thăng tiến trong những ngành nghề này rất hạn chế, đặc biệt đối với phụ nữ.

“Vì vậy, trong chính sách và hành động cần tập trung tạo điều kiện để tất cả mọi người được thụ hưởng công bằng các lợi ích từ việc phát triển kinh tế-xã hội”, ông Layton Pike nói.

Bà Shoko Ishikawa, Trưởng Đại diện của UN Women Việt Nam cũng cho rằng, mô hình tăng trưởng kinh tế hiện tại của Việt Nam chưa chú ý đến việc đảm bảo quyền của phụ nữ được hưởng lợi bình đẳng từ sự phát triển, và nếu các chính sách và ưu tiên hiện thời không được xem xét lại và cải cách từ góc độ giới, hội nhập kinh tế sâu rộng hơn sẽ có thể bỏ phụ nữ lại phía sau. “Ưu tiên bình đẳng giới cần phải đặt ở trung tâm của các chính sách phát triển. Đầu tư vào phụ nữ là đầu tư vào tăng trưởng kinh tế” bà chia sẻ thêm.

Báo cáo cũng lưu ý, mặc dù nhiều cơ hội công việc được mở ra cho lao động nữ trong những ngành xuất khẩu, song phụ nữ ít có cơ hội được đào tạo và thăng tiến hơn nam giới, và khoảng cách giới trong thu nhập đang giãn rộng dần theo thời gian. Thực tế, nông nghiệp vẫn là nguồn sinh kế chính của phần lớn người dân, đặc biệt là phụ nữ ở khu vực Bắc Trung bộ và Tây Nguyên, nhưng đa số họ vẫn làm việc mà không được trả công trong các nông trại gia đình. Điều này khiến họ có rất ít cơ hội đảm bảo thu nhập và năng suất lao động.

Giống như ở nhiều quốc gia khác, phụ nữ Việt Nam cũng dành nhiều thời gian hơn để làm công việc nội trợ không được trả công. So với nam giới, gánh nặng công việc không được trả công đã hạn chế khả năng tiếp cận của phụ nữ đến các cơ hội kinh tế và năng lực tham gia của họ vào các công việc được trả công, làm tăng mức độ stress của họ và có tác động đến quan hệ quyền lực trong gia đình.

Nghiên cứu đã đề xuất những khuyến nghị về chính sách để có thể thúc đẩy việc hiện thực hóa tiềm năng của phụ nữ và giúp cho sinh kế của họ đảm bảo hơn, cho dù phụ nữ là những người nông dân làm việc ở quy mô nhỏ, lao động giúp việc gia đình được trả lương hay công nhân nhà máy may.

Đặc biệt, nghiên cứu này có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo về vị thế của phụ nữ ở Việt Nam, đồng thời cung cấp các bằng chứng thực tiễn góp phần thúc đẩy mối quan tâm một cách rộng rãi và việc thông qua tất cả các chính sách và chương trình kinh tế có yếu tố giới.

 

(tổng hợp)