📞

Châu Á – tiếp tục là động lực cho tăng trưởng toàn cầu

19:51 | 09/06/2016
Kinh tế thế giới, trong đó có các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương, chững lại đã khiến cho nhiều người đặt câu hỏi liệu các nền kinh tế châu Á có còn là đầu tàu của kinh tế thế giới?

Tác giả Juzhong Zhuang và Ganeshan Wignaraja làm việc tại Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã đưa ra câu trả lời cho câu hỏi này qua bài viết đăng tải trên tờ Jakarta Post ngày 3/6.

Giai đoạn khó khăn

Nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn khó khăn, nhiều quốc gia đã phải điều chỉnh lại mục tiêu tăng trưởng của mình và tập trung các nỗ lực để ứng phó với sự suy giảm tăng trưởng kinh tế. Có nhiều ý kiến cho rằng, sự suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ còn kéo dài trong nhiều năm tới và các quốc gia cần phải có chiến lược phát triển phù hợp.

Tuy nhiên, ở châu Á, tăng trưởng kinh tế vẫn đạt mức bình quân là 6,5% trong 5 năm qua và châu Á vẫn cho thấy là khu vực phát triển nhanh nhất thế giới. Nếu đem so sánh với các nước đang phát triển ở các khu vực khác trên thế giới cùng mức tăng bình quân là 3,4% và các nước công nghiệp phát triển tăng trưởng bình quân là 1,6% trong cùng thời kỳ, thì sự phát triển của các nền kinh tế châu Á vẫn ở mức cao. Mặc dù mức tăng trưởng này đã giảm đi nhiều so với mức tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 7,6% trong những năm 2000.

Nền kinh tế Trung Quốc suy giảm ảnh hưởng tới nhu cầu tiêu thụ của thế giới. (Nguồn: Economic Times)

Nguyên nhân của sự suy giảm kinh tế toàn cầu cũng như khu vực được đánh giá là do nhu cầu giảm, ảnh hưởng đến xuất khẩu của các nền kinh tế mở. Hơn nữa, sự suy giảm của nền kinh tế Trung Quốc cũng đã làm ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ các loại nguyên, nhiên liệu của thế giới. Một nghiên cứu mới đây của ADB cho thấy, năng suất lao động của khu vực đã giảm từ mức 7,4% trong vòng 7 năm giai đoạn trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu (2008) xuống còn 7,1% trong vòng 7 năm sau khi xảy ra khủng hoảng.

Nhưng… bi quan là sai lầm

Có một số điểm sáng mà chúng ta hy vọng các nền kinh tế châu Á vẫn sẽ giữ vai trò đầu tàu của kinh tế thế giới.

Thứ nhất, kinh tế Trung Quốc vẫn đà suy giảm trong những năm tới nhưng mức độ sẽ giảm bớt. Chính phủ Trung Quốc đang áp dụng các biện pháp mạnh mẽ để duy trì tăng trưởng, trong đó tích cực đầu tư, đổi mới ngành công nghiệp để bù đắp những tác động từ sự suy giảm dân số trong độ tuổi lao động. Đây thực sự là một trong những ưu tiên mới trong kế hoạch 5 năm (2016-2020) của Bắc Kinh. Đồng thời Chính phủ nước này cũng đang điều chỉnh tốc độ tăng trưởng từ việc phụ thuộc vào xuất khẩu sang kích thích tiêu dùng trong nước, đầu tư phát triển ngành du lịch, dịch vụ để tạo ra tăng trưởng bền vững hơn.

Thứ hai, nhiều nền kinh tế châu Á khác tiếp tục phát triển mạnh mẽ, được hưởng lợi từ những nỗ lực cải cách của các chính phủ và trong thời gian tới, tăng trưởng kinh tế châu Á sẽ được tạo ra chủ yếu từ các nền kinh tế này.

Ở khu vực Đông Nam Á, Nam Á có nhiều nền kinh tế đã có mức tăng trưởng ấn tượng đó là Bangladesh, Ấn Độ, Indonesia, Pakistan và Philippines. Ấn Độ là một ví dụ điển hình cho sự phát triển nhanh chóng, quốc gia này đã tích cực ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ công nghệ thông tin.

Hiện nay, Ấn Độ đang tích cực thúc đẩy sản xuất và liên kết trên toàn cầu. Bên cạnh các quốc gia trên, Indonesia cũng đang cố gắng thay đổi từ nền kinh tế phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên sang ưu tiên tập trung cho sản xuất. Các quốc gia khác như Campuchia, Lào, Myanmar với tốc độ tăng trưởng bình quân 7-8% mỗi năm cũng đang cố gắng để bắt kịp với các quốc gia khác trong ASEAN.

Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ là 3 nền kinh tế hàng đầu châu Á. (Nguồn: Economic Times)

Thứ ba, khu vực châu Á đã có bài học kinh nghiệm xương máu từ cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1998 và đã có các biện pháp để ngăn chặn, giảm thiểu tác động rủi ro tài chính và tăng cường khả năng phục hồi khi bị tác động từ bên ngoài. Chính phủ các quốc gia châu Á đang tích cực có các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường sự giám sát đối với các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính. Sự hội nhập kinh tế khu vực ngày càng được đẩy mạnh, các thị trường kinh tế khu vực ngày càng được gắn kết với nhau qua sự phát triển của các chuỗi giá trị toàn cầu, các hiệp định thương mại tự do, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng được đẩy mạnh.

Thứ tư, khu vực châu Á vẫn còn nhiều cơ hội, tiềm năng để có thể bắt kịp với các nước tiên tiến. Trong năm 2015, thu nhập bình quân đầu người của các quốc gia châu Á đạt 4.796 USD so với mức thu nhập bình quân đầu người của toàn thế giới là 10.139 USD và so với các nước thuộc khối OECD là 35.768 USD. Hầu hết các nền kinh tế châu Á vẫn còn ở mức là nền kinh tế thu nhập thấp và trung bình thấp. Đáng chú ý, các quốc gia và vùng lãnh thổ như: Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) và Hong Kong (Trung Quốc) đã đạt tốc độ tăng trưởng từ 7-9% trong những năm 1960-1980 trước khi họ trở thành các nền kinh tế công nghiệp mới.

Và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng đó là nhiều quốc gia châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia đang nỗ lực cải cách thương mại và cơ chế đầu tư, tích cực ưu tiên quản lý kinh tế vĩ mô, tài chính công, quy chế tài chính và quản trị khu vực công… Những cải cách này sẽ tạo ra việc phân bổ nguồn lực hiệu quả, nâng cao hiệu quả quản lý, tăng cường khả năng ứng phó của nền kinh tế đối với những tác động tiêu cực từ bên ngoài và đặt nền móng cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển hiệu quả hơn nữa.

Nghiên cứu của ADB kết luận rằng, với sự đổi mới mạnh mẽ của các quốc gia châu Á, tăng trưởng của các nền kinh tế trong khu vực sẽ tăng thêm bình quân 1% trong vòng 10 năm tới. Do đó, thái độ bi quan với tiềm năng tăng trưởng của kinh tế châu Á là sai lầm. Với việc cải cách và thực thi các chính sách hiệu quả, khu vực này có thể và sẽ tiếp tục là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu.

(tổng hợp)