Số lượng công bố quốc tế của Việt Nam và một số quốc gia giai đoạn 2011-2015. (Nguồn: Web of Science). |
Theo báo cáo sơ kết giai đoạn 2011 – 2015 của Bộ Khoa học và Công nghệ, tổng số bài báo, công trình khoa học được công bố quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2015 là 11.738, cao gấp 2,2 lần so với giai đoạn 2006 – 2010, với tốc độ tăng bình quân 19,5%, đạt mức cao so với mục tiêu.
Tại Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ tư - chỉ sau Singapore, Malaysia và Thái Lan. Ba lĩnh lực thế mạnh của Việt Nam gồm: toán học, vật lý và hóa học, chiếm tới 40% tổng công bố quốc tế. Trong đó, đáng chú ý nhất là toán học có số công bố quốc tế đứng đầu khu vực.
Lý giải việc số lượng công bố quốc tế của Việt Nam tăng “đột biến” trong giai đoạn 2011 – 2015, đại diện Bộ Khoa học cho biết, đó là vì thời gian này, Việt Nam tăng quy mô và hiệu quả hỗ trợ hoạt động nghiên cứu từ nguồn ngân sách nhà nước thông qua quỹ NAFOSTED (Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ). Quỹ này áp dụng cơ chế tài trợ các dự án nghiên cứu theo chuẩn mực quốc tế, chú trọng sản phẩm đầu ra (số lượng bài báo, công trình quốc tế), minh bạch hóa quy trình xét chọn, tuyển chọn nhiệm vụ.
Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, số công bố quốc tế từ Việt Nam phần lớn đều là bài báo, công trình đứng tên chung với tác giả nước ngoài. Bên cạnh đó, chỉ số trích dẫn quốc tế và chỉ số tác động khoa học còn chưa đạt mức trung bình thế giới. Trong khi, đây là hai chỉ số quan trọng để đánh giá mức độ phát triển của một nền khoa học.
Về số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ của Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2015, cũng tăng 62% so với giai đoạn 2006 – 2010. Tuy nhiên, số lượng đơn do các tổ chức, cá nhân Việt Nam đăng ký còn ít, chưa đạt như kỳ vọng.
Một số lĩnh vực điển hình như dược – mỹ phẩm, lượng đơn và văn bằng bảo hộ sáng chế của chủ đơn nước ngoài chiếm tuyệt đại đa số, trong đó chủ yếu là từ các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Đức, Thụy Sỹ, Pháp, Nhật Bản, Bỉ, Anh. Số đơn sáng chế bảo hộ quốc tế có nguồn gốc Việt Nam còn rất thấp.