![]() |
(Ảnh minh họa) |
Quá lạc quan về “phương Nam"
Có nhiều yếu tố thúc đẩy sự phục hồi của các nước đang phát triển. Thứ nhất, thương mại giữa các nước đang phát triển đã tăng trong những năm gần đây. Thứ đến, sự phát triển nhanh chóng của các nước đang phát triển lớn đã làm nhu cầu nguyên liệu tăng qua đó hỗ trợ các nền kinh tế đang phát triển khác phục hồi. Và quan trọng nhất là những cải thiện về chính sách đã giúp các nước đang phát triển chống đỡ được với các cú sốc từ bên ngoài. Điều kiện tài chính vững vàng và dự trữ ngoại tệ lớn cũng là đòn bẩy giúp các nước này giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu.
Trong Báo cáo "Triển vọng Phát triển Toàn cầu: sự chuyển dịch của thịnh vượng" do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) vừa công bố, thì nhóm các nước đang phát triển và đang nổi thường được gọi chung là "phương Nam" không chỉ bắt kịp các nước phát triển, mà vào năm 2030 còn sẽ vượt qua các nước phương Bắc, và chiếm gần 60% GDP toàn cầu, trong lúc mà toàn bộ hơn 30 nước thành viên giàu có của OECD vào thời điểm đó chỉ còn chiếm được hơn 40% GDP toàn cầu.
Tuy nhiên, không hoàn toàn lạc quan như vậy, các quốc gia phương Nam vẫn còn thiếu những yếu tố để có thể làm chủ thế giới. Nhu cầu nội địa của các nước đang phát triển có tăng, nhưng sự gia tăng đó chủ yếu là do chính sách kích thích tài chính và việc nới lỏng các chính sách tiền tệ đã sử dụng. Kích thích nội địa đã đóng góp 2,4% trong 8,7% tăng trưởng GDP của Trung Quốc trong năm 2009. Ngoài ra các biện pháp kích thích của các nước khác làm cho nhu cầu hàng xuất khẩu của Trung Quốc cũng tăng lên. Do đó, phải đến 4,2% trong 8,7% tăng trưởng GDP của Trung Quốc là nhờ các biện pháp kích thích trong và ngoài nước. Vì thế, sẽ quá vội vàng khi cho rằng các nền kinh tế đang nổi có thể thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới mà không cần nhu cầu của các nước phát triển.
Các biện pháp chính sách chỉ có tác dụng tạm thời, hơn nữa, hỗ trợ của kích thích tài chính đối với tăng trưởng sẽ giảm đi và chính sách tiền tệ sẽ bị thắt chặt khi có các dấu hiện quá nóng. Một số nước như Trung Quốc có thể kéo dài chính sách kích thích, nhưng một số khác thì khó vì nợ công đã ở mức cao.
Quy mô thị trường lao động vừa rẻ, vừa trẻ của các nước đang phát triển cũng được cho là một nhân tố đưa các nước nghèo đạt tốc độ tăng trưởng cao trong mấy chục năm liền. Nhưng khi các nước bớt nghèo đi thì lợi thế ấy cũng sẽ giảm dần, đó là câu chuyện bắt đầu thấy ở Trung Quốc. Và đà tăng trưởng cũng vậy.
Thế giới cũng đang bị "mê hoặc" bởi các doanh nghiệp Ấn Độ hay Trung Quốc đang lấn sân vào thị trường Âu - Mỹ, kể cả việc mua lại nhiều tập đoàn tên tuổi của thế giới. Họ có thể nắm giữ rất nhiều ngoại tệ, nhưng một thứ tài sản là then chốt của sự phát triển và năng suất thì lại thiếu. So với Mỹ, Nhật Bản, Đức hay Hàn Quốc, dự trữ về trí tuệ của các nước này được đánh giá không đáng kể.
Một yếu tố nữa, được cho là "yếu tố bi quan" bởi xuất phát từ chính nội bộ các nước đang phát triển với nhau. Khi các quốc gia cùng buôn bán giao dịch trên một thị trường thì không thể nói trước về khả năng có hay không sự tranh chấp về quyền lợi.
“Phương Bắc" Không rõ ràng
Tại Hội nghị G-20 ở Toronto, các nhà lãnh đạo đã phải vật lộn để duy trì sự thống nhất, khi nhiều nước trong chính khối này đang vượt qua suy thoái theo những tốc độ khác nhau và những ưu tiên khác nhau. Quan điểm khác nhau của mỗi nước cũng đã bộc lộ rõ. Cho dù cuộc khủng hoảng nợ của châu Âu tạm lắng và sự phục hồi kinh tế của Mỹ và một số nước khác có thể tiếp tục diễn ra, nhưng sự tăng trưởng bền vững sẽ phụ thuộc vào việc nền kinh tế toàn cầu có trở nên cân bằng, thâm hụt thương mại và nợ giảm hay không. Trong khi châu Âu bị chỉ trích do các biện pháp khắc khổ có thể bóp ngẹt sự phục hồi vốn đã yếu ớt tại châu lục này. Trung Quốc vẫn thúc đẩy xuất khẩu. Còn Mỹ lại được các đối tác thương mại coi là nguồn tiêu dùng chủ đạo.
Nhưng với châu Âu, nhu cầu củng cố ngân sách là cấp thiết, nhất là sau khi Hy Lạp đã phải tìm kiếm sự hỗ trợ tài chính. Còn nhiều chuyên gia cho rằng một trong các yếu tố làm kinh tế thế giới không thể cân bằng đó là chính sách giữ đồng nội tệ yếu để thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc. Riêng với Mỹ, khi thất nghiệp vẫn ở mức cao và thu nhập không tăng, nếu người Mỹ tiêu dùng nhiều hơn có thể dẫn đến những khó khăn mới.
Tuy vậy, nhiều phân tích cho thấy nước Mỹ đang tiêu dùng một khối lượng lớn hàng hoá của châu Á, châu Âu và các khu vực khác. Trong khi xuất khẩu của Mỹ lại không tăng một cách tương ứng. Đồng USD đang tăng giá so với euro và nhiều đồng tiền khác, do đó hàng Mỹ trở nên đắt đỏ hơn ở châu Âu và tất cả các khu vực khác, ngoại trừ Trung Quốc. Do vậy, không dễ gì Mỹ có thể giảm thâm hụt thương mại và phá vỡ được vòng chi tiêu - nhập khẩu - vay mượn và chi tiêu. Kinh tế thế giới đang trở lại con đường trước khủng hoảng.
Minh Anh