Thí sinh Đội tuyển Việt Nam tham dự Kỳ thi Tay nghề thế giới lần thứ 45 tổ chức tại thành phố Kazan (Cộng hòa Tatarstan, thuộc Liên bang Nga). (Nguồn: gdnn.gov.vn) |
Những người tạo ra thành công nhỏ muốn tạo ra thành công lớn và những người tạo nên thành công lớn muốn tạo ra thành công lớn hơn…
Cơ chế kinh tế thị trường được vận hành nhờ động lực quan trọng đó của con người đã giúp thúc đẩy, giải phóng một cách toàn diện các nguồn lực trong xã hội, trong đó có nguồn nhân lực.
Nguồn lực này thực tế là năng suất lao động của một cá nhân, được thừa hưởng và phát triển thông qua giáo dục và đào tạo cũng như trong môi trường xã hội thích hợp. Nguồn vốn con người được xem là tài sản quan trọng nhất của bất kỳ quốc gia nào. Đầu tư vào con người luôn là tất yếu trong phát triển năng lực quốc gia vì nó vừa là động lực, vừa là mục tiêu cuối cùng của mọi nền kinh tế.
Việt Nam là quốc gia đông dân thứ 15 trên thế giới với khoảng 100 triệu người, trong đó, tỷ lệ biết chữ và tỷ lệ nhập học cơ bản cao (98%), tỷ lệ tham gia lực lượng lao động khoảng gần 70%. Đây là những lợi thế về nguồn nhân lực.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, con người là trung tâm của sự phát triển và kiên định phát triển con người Việt Nam toàn diện: “Coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”.
Theo đó, dự thảo Chiến lược tổng quát đến năm 2030 của ngành giáo dục với Tầm nhìn đến năm 2045 là xây dựng nền giáo dục Việt Nam hiện đại, kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn minh nhân loại, xây dựng đất nước phồn vinh và hạnh phúc hướng tới đạt trình độ tiên tiến của khu vực vào năm 2030 và đạt trình độ tiên tiến của thế giới vào năm 2045.
Việc hợp tác quốc tế mạnh mẽ đã mở ra nhiều cơ hội cho Việt Nam trong việc hoàn thiện chất lượng nguồn nhân lực theo các tiêu chuẩn tiến bộ trên thế giới. Mặc dù vậy, Việt Nam còn thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, thiếu tính chủ động và sáng tạo. Đặc biệt, việc thu hút, sử dụng nguồn nhân lực cũng gặp khó khăn khi đối diện một xu hướng không tránh khỏi là nạn “chảy máu chất xám”.
Ở Việt Nam, chính sách khuyến khích, thúc đẩy sự đổi mới và sáng tạo của con người là một trong những quyết sách quan trọng nhất của Chính phủ trong thời đại công nghệ số hiện nay. Kết quả là, Báo cáo GII (chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu) 2021 của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) ghi nhận, Việt Nam là hình mẫu nằm trong số 50 nền kinh tế có tiến bộ đáng kể nhất trên thế giới.
Tuy nhiên, Việt Nam hiện vẫn là một nước đang phát triển và luôn tiềm ẩn cạm bẫy của một đất nước thu nhập trung bình. Và để vượt qua thách thức đó nhằm thực hiện tốt Tầm nhìn 2045 của đất nước, xin đề xuất ba nội dung góp phần thúc đẩy nguồn lực đổi mới và sáng tạo Việt hướng tới một đất nước phát triển.
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hiện đang mang lại nhiều cơ hội mới. Do đó, để triển khai tốt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chiến lược và Tầm nhìn mới của ngành giáo dục, cần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc tạo ra các hệ thống, quy trình và đặc biệt là môi trường xã hội văn minh, công bằng cho mọi người, mọi tổ chức là một trong những bước quan trọng nhất trong quá trình đổi mới.
Một xã hội pháp luật công bằng sẽ là môi trường cởi mở, tự chủ cho các bản quyền đổi mới và sáng tạo tích cực vì đổi mới - sáng tạo thường là kết quả của tự do bình đẳng và là khởi nguồn của sự thịnh vượng. Khi đó, định hướng bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có quý hơn độc lập tự do” đã có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ giữ nước, lại càng phát huy tối đa nguồn lực đổi mới và sáng tạo của con người trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước.
Xây dựng văn hóa hỗ trợ và thúc đẩy đổi mới-sáng tạo
Văn hóa làm việc đoàn kết và hợp tác bình đẳng giúp tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình hình thành văn hóa đổi mới. Văn hóa đổi mới và sáng tạo được triển khai thực hiện sẽ cho phép các tổ chức ăn mừng những đổi mới thành công trong khi vẫn học hỏi từ những thất bại của họ.
Ngoài ra cũng cần thay đổi nhận thức rằng, đổi mới và sáng tạo luôn liên quan đến đầu tư tốn kém, kỹ thuật phức tạp hay công nghệ mới. Tại Nhật Bản, Kaizen là chương trình cải tiến sáng tạo và liên tục đổi mới để nâng cao năng suất lao động, đã có lịch sử hơn 50 năm và được áp dụng rộng rãi trong mọi doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.
Kaizen không chỉ giới hạn trong ngành sản xuất mà còn có thể áp dụng được trong ngành dịch vụ, kinh doanh bán lẻ, thậm chí là trong các chương trình giáo dục và đào tạo cũng như phát triển đời sống cá nhân. Để thực hiện Kaizen, chúng ta chỉ cần áp dụng những kỹ thuật thông thường, đơn giản như bảy công cụ kiểm soát chất lượng (biểu đồ Pareto, nhân quả, tổ chức, kiểm soát, phân tán, các đồ thị và phiếu kiểm tra).
Xây dựng văn hóa sáng tạo và đổi mới là một quá trình cần có thời gian, sự kiên nhẫn và nguồn lực đáng kể, đặc biệt khi đứng trước sự thất bại hoặc thậm chí là thái độ phản cảm của xã hội. Vì vậy, nếu muốn phát triển mạnh mẽ công cuộc đổi mới và sáng tạo, chúng ta cần xây dựng một nền văn hóa hỗ trợ mạnh mẽ trong lĩnh vực này.
Phát triển chất lượng và bền vững
Để tiến tới một xã hội phồn vinh thì phải định lượng, huy động, sử dụng hiệu quả và hơn hết phải luôn nhân lên tất cả nguồn vốn của quốc gia, trong đó có nguồn vốn con người, mà không làm cạn kiệt nó.
Chủ động nuôi dưỡng và quản trị tốt nguồn lực vô giá đó của quốc gia thông qua đổi mới các chính sách trong giáo dục và đào tạo, hợp tác công bằng (giữa các vùng miền và giai tầng xã hội), cạnh tranh lành mạnh trong thị trường lao động sẽ đảm bảo niềm tin và an sinh xã hội, thúc đẩy niềm tự hào sáng tạo và đổi mới trong mọi tầng lớp nhân dân. Cuối cùng là tạo sự khác biệt trong chất lượng phát triển bền vững và phồn vinh nền kinh tế đất nước.