![]() |
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm và Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tại Washington, tháng 10/2009. |
Một thời gian ngắn sau khi bình thường hoá, hai nước đã thiết lập và duy trì mối quan hệ chính trị-ngoại giao tích cực. Lãnh đạo cấp cao Việt Nam và Mỹ đã thực hiện 5 chuyến thăm chính thức tới Thủ đô của hai nước: Tổng thống Mỹ Bill Clinton và George W. Bush thăm Việt Nam vào các năm 2000 và 2006; Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thăm chính thức Mỹ vào 2005, 2007 và 2008. Đặc biệt là qua các chuyến thăm này, lãnh đạo hai nước đã thông qua ba Tuyên bố chung khẳng định những lợi ích chung và nguyên tắc cơ bản cho khuôn khổ quan hệ "đối tác hữu nghị, xây dựng, hợp tác nhiều mặt trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi" giữa hai nước. Lãnh đạo cấp cao hai nước còn có các cuộc tiếp xúc thường xuyên bên lề các hội nghị quốc tế, nhất là tại các Hội nghị APEC và Liên hợp quốc. Tháng 4 năm nay, nhận lời mời của Tổng thống Barack Obama, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã tham dự Hội nghị Thượng đỉnh về An ninh hạt nhân tại Washington D.C. và nhân dịp này đã có một số cuộc tiếp xúc song phương với các nhà lãnh đạo Mỹ để thảo luận các biện pháp tăng cường hơn nữa quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước trong thời gian tới.
Sự thành công của hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và Mỹ, đặc biệt kể từ khi Hiệp định thương mại song phương BTA có hiệu lực từ năm 2001 đã mang lại những lợi ích to lớn cho cả hai nước.
Là hai nền kinh tế có nhiều lĩnh vực mang tính bổ trợ, đồng thời với việc chú trọng thiết lập nền tảng pháp lý cho quan hệ kinh tế - thương mại, từ chỗ chỉ đạt khoảng hơn 400 triệu đôla năm 1995, thương mại hai chiều Việt Nam - Mỹ năm 2009 đã đạt tới 15,6 tỷ USD (tăng hơn 30 lần). Kể từ 2005, Mỹ đã vươn lên trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Ngay cả trong năm 2009, khi nền kinh tế thế giới và Mỹ rơi vào khủng hoảng thì Việt Nam vẫn được coi là một trong số ít nước xuất khẩu thành công nhất sang thị trường này với giá trị hơn 12,3 tỷ USD, đồng thời Mỹ vươn lên thành nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam trong năm 2009 với số vốn lên tới 9,8 tỷ USD, chiếm 25% tổng số FDI vào Việt Nam. Tính tổng thể, Mỹ đang là nhà đầu tư lớn thứ 6 trong bảng xếp hạng các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ đã đạt được nhiều bước tiến tích cực. So với thời điểm khi hai nước bình thường hóa quan hệ, trao đổi lưu học sinh cũng như số lượng lưu học sinh Việt Nam tại Mỹ đã tăng đáng kể (hiện có khoảng gần 13 nghìn du học sinh Việt Nam tại các trường đại học Mỹ). Trong chuyến thăm chính thức Mỹ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tháng 6/2008, hai bên đã thỏa thuận tăng cường hợp tác về giáo dục, đào tạo thông qua việc thành lập Nhóm chuyên trách về hợp tác giáo dục Việt - Mỹ. Hai bên đang xúc tiến hợp tác xây dựng trường đại học theo tiêu chuẩn quốc tế tiếp cận giáo trình và phương pháp đào tạo tiên tiến.
Chính phủ hai nước cũng đã ký Hiệp định về hợp tác khoa học-công nghệ từ 2001 và trao đổi nhiều đoàn cấp Bộ và cấp chuyên gia để đẩy mạnh hợp tác về lĩnh vực này. Ủy ban hỗn hợp về hợp tác khoa học-công nghệ Việt Nam - Mỹ đã họp 6 vòng và đang dự kiến họp vòng thứ 7 vào cuối năm nay. Hai bên đã thành lập cơ chế hợp tác trong việc nghiên cứu và ứng phó biến đổi khí hậu và nước biển dâng, lập trung tâm nghiên cứu về vấn đề này (gọi tắt là DRAGON) ở Cần Thơ. Trong những năm gần đây công nghệ hạt nhân trở thành một lĩnh vực hợp tác mới tiềm năng giữa Việt Nam và Mỹ. Hai bên đã ký Bản ghi nhớ về hợp tác năng lượng hạt nhân mở ra cơ hội hợp tác trong lĩnh vực hạt nhân dân sự, nhiều tập đoàn của Mỹ với công nghệ hàng đầu thế giới về điện hạt nhân đã bày tỏ quan tâm hợp tác phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam. Hai bên đã bắt đầu trao đổi để đi đến đàm phán Hiệp định hợp tác hạt nhân dân sự giữa hai nước (còn gọi là Hiệp định 123).
Vấn đề giải quyết hậu quả chất độc da cam, một trong những di chứng nặng nề nhất do cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam để lại đối với môi trường cũng như sức khoẻ của hàng triệu người Việt Nam cũng bước đầu có những chuyển biến. Từ 2008, Quốc hội Mỹ đã thông qua viện trợ 3 triệu USD mỗi năm cho việc giải quyết vấn đề da cam/dioxin tại Việt Nam. Một bộ phận dư luận Mỹ, trong đó có nhiều nghị sỹ, đã lên tiếng yêu cầu Chính phủ Mỹ thực hiện một cách đầy đủ hơn trách nhiệm đối với việc giải quyết vấn đề này.
Việt Nam nhất quán coi việc hợp tác tìm kiếm quân nhân Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam là vấn đề nhân đạo, đã và đang hợp tác có hiệu quả với Chính phủ Mỹ. Đến nay, hai nước đã tiến hành được 99 đợt khai quật hỗn hợp, 113 đợt trao trả hài cốt, qua đó giúp Mỹ nhận dạng khoảng 655 trường hợp mất tích. Chính phủ và nhiều tổ chức cựu binh Mỹ đã cung cấp nhiều thông tin liên quan đến chiến sỹ Việt Nam mất tích và hỗ trợ tài chính để nâng cao khả năng nhận dạng hài cốt. Mỹ cũng trợ giúp tích cực Việt Nam trong việc rà phá bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Trong những năm qua, Mỹ đã viện trợ cho Việt Nam khoảng hơn 100 triệu USD/năm, đặc biệt trong chương trình trợ giúp những người nhiễm HIV ở Việt Nam (Chương trình PEPFAR).
Giao lưu giữa người dân hai nước ngày càng được tăng cường. Ngày càng nhiều người dân hai nước đến du lịch, thăm viếng, học tập lẫn nhau. Nhiều chương trình giao lưu giữa các cựu chiến binh, chương trình "Ký túc xá cho người cao tuổi", chương trình trao đổi "Sứ giả hữu nghị" được tổ chức thường xuyên, thu hút được đông đảo người dân hai nước tham gia. Các chương trình tìm hiểu về Việt Nam dành cho người Mỹ và tìm hiểu về nước Mỹ cho người Việt Nam đã được tích cực triển khai, qua đó giúp người Mỹ và Việt Nam hiểu thêm về lịch sử, văn hoá, truyền thống của mỗi nước.
Hợp tác trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng cũng đang từng bước phát triển với việc trao đổi nhiều đoàn các cấp, trong đó có các chuyến thăm lẫn nhau của Bộ trưởng Quốc phòng và lãnh đạo cao nhất của ngành an ninh hai nước, hợp tác cứu hộ, cứu nạn, đào tạo ngoại ngữ; chống khủng bố, chống buôn bán ma túy, phụ nữ, trẻ em, chống rửa tiền… Đáp ứng nhu cầu tăng cường
hiểu biết lẫn nhau và gia tăng hợp tác của hai bên, từ năm 2008, hai nước đã tiến hành ba phiên Đối thoại Chính trị - An ninh - Quốc phòng trao đổi về quan hệ hai nước cũng như tình hình khu vực và quốc tế.
Việt Nam và Mỹ cũng đã tiến hành được tương đối hiệu quả việc đối thoại về những khác biệt giữa hai nước về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo. Việc hai nước đã tiến hành 14 phiên đối thoại về vấn đề dân chủ, nhân quyền trong những năm qua gắn với tiến trình quan hệ hai nước đạt được nhiều tiến triển đã khẳng định đối thoại thẳng thắn, trên tinh thần xây dựng là phương cách có hiệu quả nhất để thu hẹp khác biệt và phát triển hợp tác vì những lợi ích rộng lớn hơn của hai dân tộc.
Cùng với những tiến triển trong quan hệ song phương, hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trên nhiều vấn đề quốc tế và khu vực đang từng bước phát triển phù hợp với lợi ích của hai nước. Là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (2008-2009), Việt Nam đã phối hợp tốt với các nước thành viên, đặc biệt là nhóm Ủy viên thường trực trong giải quyết các vấn đề quốc tế trên nguyên tắc hòa bình và tôn trọng luật pháp quốc tế. Ở cấp độ khu vực, Việt Nam và Mỹ cũng phối hợp tại các diễn đàn như diễn đàn An ninh khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị sau hội nghị Bộ trưởng (PMC), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-TBD (APEC) và gần đây là hợp tác tiểu vùng Mê-kong. Với tư cách là Chủ tịch ASEAN trong năm 2010, Việt Nam đang tích cực phối hợp cùng với các nước ASEAN và Mỹ để thúc đẩy hợp tác ASEAN-Mỹ và tổ chức Hội nghị Cấp cao Mỹ-ASEAN lần 2.
Những thành tựu trên rất đáng khích lệ nhưng mới chỉ là bước đầu. Trong những năm tới, hai bên cần tiếp tục tăng cường nỗ lực để tiếp tục xây dựng và củng cố mối quan hệ đối tác hữu nghị, hợp tác nhiều mặt trong đó cần tập trung vào những phương hướng lớn:
Thứ nhất, duy trì trao đổi đoàn và tiếp xúc của lãnh đạo cấp cao hai nước.
Thứ hai, tăng cường hơn nữa quan hệ thương mại, đầu tư giữa hai nước; Mỹ cần sớm loại bỏ các rào cản trong quan hệ thương mại, nhất là các vụ kiện "bán phá giá"; hai bên đẩy mạnh đàm phán Hiệp định đầu tư song phương Việt Nam - Mỹ (BIT), tích cực trao đổi về việc tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Mỹ sớm công nhận nền kinh tế thị trường của Việt Nam và dành cho Việt Nam Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP).
Thứ ba, hợp tác chặt chẽ trong vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Mỹ tăng cường hỗ trợ Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ Việt Nam phát triển khoa học công nghệ, hạ tầng cơ sở, kể cả điện hạt nhân.
Thứ tư, tiếp tục thúc đẩy hợp tác nhân đạo, trong đó tập trung vào các lĩnh vực MIA, giải quyết vấn đề da cam/dioxin, rà phá bom mìn, y tế cộng đồng, đồng thời tích cực thúc đẩy hợp tác trên các vấn đề như cứu trợ thiên tai, tìm kiếm cứu nạn.
Thứ năm, duy trì đối thoại chính trị - an ninh - quốc phòng, nhằm tăng hiểu biết và xác định những lĩnh vực hợp tác thực chất nhằm thúc đẩy quan hệ song phương đồng thời đóng góp vào duy trì hoà bình, ổn định ở khu vực và quốc tế.
Thứ sáu, tích cực trao đổi, hợp tác trên các diễn đàn đa phương, nhất là trên các diễn đàn ASEAN và APEC.
Thứ bảy, duy trì đối thoại thẳng thắn, xây dựng về các vấn đề còn khác biệt quan điểm liên quan tới dân chủ, nhân quyền, tôn giáo.
Trong khoảng thời gian 15 năm, hai nước đã đi được một quãng đường dài trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng một khuôn khổ quan hệ ổn định lâu dài cho quan hệ giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Mỹ, góp phần vào nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định và phát triển tại khu vực Đông Nam Á và Châu Á-TBD. Trong việc thực hiện chủ trương, đường lối đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá, độc lập tự chủ, tăng cường hội nhập quốc tế của mình, Việt Nam coi trọng quan hệ với Mỹ và sẽ tiếp tục phát triển hợp tác với Mỹ trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Với những thành quả đạt được và cùng nỗ lực hợp tác từ hai nước, chúng ta tin tưởng rằng quan hệ hai nước sẽ thu được nhiều thành công hơn nữa trong những năm tới.
PHẠM GIA KHIÊM
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
(Bài viết đăng trên Tạp chí Việt-Mỹ số tháng 7+8 năm 2010).