Tên dài nhất
Tên của Vụ nghe có vẻ… dài quá?
(Cười) Đổi tên nhưng thực ra là trở lại tên cũ. Trước năm 1995 gọi là Vụ châu Á 2 (gộp Vụ châu Á 2 và Vụ châu Á 3 ). Đầu năm 1996, Vụ châu Á 2 gộp với Vụ châu Á 4 thành Vụ Đông Nam Á – Nam Á - Nam Thái Bình Dương. Sau đó gọi chung là Vụ châu Á 2 rồi trở lại tên đơn vị dài nhất Bộ như hiện nay.
Tại sao có sự trở lại, thưa ông?
Đơn giản là giờ không còn Vụ châu Âu 1 và Vụ châu Âu 2 như trước nữa (cười). Quan trọng là điều này đúng với thông lệ Bộ Ngoại giao các nước – đặt tên Vụ khu vực theo khu vực địa lý. Chỉ cần nói tên là biết địa bàn theo dõi của đơn vị đó.
Cho nên, tên mới mà cũ, dài nhưng đáp ứng thông lệ trong cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao và làm rõ luôn về phạm vi hoạt động của Vụ.
Bộ máy về cơ bản là giữ nguyên?
Các Tổ chuyên trách thì vẫn vậy. Vụ có các tổ Đông Nam Á lục địa, Đông Nam Á hải đảo, Nam Á, Tổng hợp… Nhưng về nhân lực thì chưa đạt chỉ tiêu biên chế của Bộ. Năm nay, Bộ cho 36 biên chế, nhưng Vụ mới chỉ có 25 CBCNV.
“Trẻ” nhất
Điều này nghĩa là… thiếu?
Đúng thế. Một đặc điểm nữa ở Vụ là sự chuyển giao thế hệ. Tính ra thì chuyên viên sinh vào giữa những năm 1970 và đầu 1980 chiếm đa số (19/25). Có lẽ đây là lần đầu tiên ở Vụ, tỷ lệ người trẻ cao như vậy.
Trẻ đi liền với năng động?
Cái thuận là các bạn trẻ được học hành căn bản, ngoại ngữ tốt, ham học hỏi, chịu khó tìm tòi, năng động. Nhưng hạn chế là non về kinh nghiệm và kiến thức chưa đủ độ sâu.
Vụ đang tổ chức đào tạo tại chỗ cho các chuyên viên mới làm quen với các kỹ năng ngoại giao, từ cách viết báo cáo, thể hiện văn bản đến giao tiếp đối ngoại… Kéo dài trong ba tuần, lớp đi trước truyền kiến thức cho lớp đi sau, đây cũng thể hiện trách nhiệm của Vụ trong việc bồi dưỡng thế hệ cán bộ mới của Bộ.
Nâng tầm để đổi mới
Trở lại tên cũ, nhiệm vụ của Vụ có gì thay đổi?
Trong các hoạt động đối ngoại, Việt Nam đang ưu tiên tạo dựng và củng cố khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng, các nước khu vực nhằm tạo các điều kiện thuận lợi cho phát triển đất nước. "Quan hệ đặc biệt" Việt - Lào tiếp tục được củng cố. Quan hệ Việt Nam - Campuchia tiếp tục phát triển theo khuôn khổ "láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài". Quan hệ với các nước ASEAN tiếp tục được tăng cường. Việt Nam và Ấn Độ phát triển theo hướng cụ thể hóa và làm phong phú các nội dung của quan hệ đối tác chiến lược. Quan hệ Việt Nam với Australia, New Zealand và các nước khác ở khu vực đang được mở rộng trên nhiều lĩnh vực...
Hòa nhịp chung với sự sôi động của đối ngoại Việt Nam, thời gian tới Vụ tiếp tục góp phần làm sâu sắc hơn quan hệ với từng nước trong khu vực, hội nhập sâu hơn với khu vực, nhất là quan hệ với ASEAN và các hợp tác tiểu vùng nhằm phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
Sau 22 năm đổi mới, tôi cho rằng đã đến lúc chúng ta nên nhìn đến chặng đường tiếp theo để đóng góp một cách hiệu quả nhất cho ngoại giao Việt Nam vì mục tiêu phát triển trong giai đoạn mới…
Đòi hỏi mỗi cán bộ ngoại giao cũng ý thức nâng tầm của mình?
Rõ ràng là như vậy. Trước đây, cán bộ ngoại giao mới vào ngành chỉ đọc tài liệu, tập viết đại sử ký trong hàng năm trời. Giờ đây, chuyên viên mới đã phải "xông" ngay vào việc, tham gia đàm phán, phục vụ đoàn cấp cao, viết dự thảo văn bản hiệp định…
Bản thân mỗi nhà ngoại giao phải luôn đổi mới, trau dồi mình liên tục nếu không muốn bị "lạc hậu" trước đòi hỏi không ngừng của sự phát triển đất nước và những biến đổi mới của tình hình khu vực và thế giới…
Xin cảm ơn ông!
Hạ Thy (Thực hiện)