Toàn cảnh Hội thảo. (Ảnh: Hồng Châu) |
Ngày 28/3, tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo tổng kết dự án “Các phương pháp tiếp cận dựa vào thị trường nhằm cải thiện an toàn của thịt lợn tại Việt Nam” (SafePORK).
Dự án SafePORK (2017-2023) là một dự án được tài trợ bởi Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp quốc tế Australia (ACIAR). Viện nghiên cứu Chăn nuôi quốc tế (ILRI) hợp tác với Học viện Nông nghiệp Việt Nam (VNUA), Đại học Y tế Công cộng (HUPH), Viện Chăn nuôi (NIAS) và Đại học Sydney, Australia cùng triển khai dự án.
Dự án SafePORK hướng đến mục tiêu giảm gánh nặng bệnh tật do thực phẩm gây ra ở các thị trường không chính thức, mới nổi và thị trường ngách. Dự án đã phát triển và đánh giá các biện pháp can thiệp đơn giản để cải thiện an toàn thực phẩm đồng thời bảo vệ sinh kế cho các tác nhân trong chuỗi thịt lợn quy mô nông hộ nhỏ tại Việt Nam.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Anna Okello, Quản lý chương trình nghiên cứu hệ thống chăn nuôi của ACIAR, cho biết: “Trong thỏa thuận giữa ACIAR và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn giai đoạn 2017- 2027, an toàn thực phẩm được xác định là một trong 6 chủ đề ưu tiên. Các dự án như SafePORK có thể cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách và công chúng những bằng chứng khoa học hỗ trợ cho các lựa chọn chính sách khả thi giúp quản lý an toàn thực phẩm hiệu quả hơn tại Việt Nam".
Theo TS. Phạm Đức Phúc, thành viên của dự án đến từ Đại học Y tế Công cộng, thịt lợn là loại thịt được tiêu thụ nhiều nhất ở Việt Nam và mức độ nhiễm khuẩn Salmonella trong thịt lợn rất cao. Trung bình, hàng năm cứ 10 người thì có 1-2 người có nguy cơ mắc bệnh nhiễm khuẩn Salmonella từ thịt lợn.
Salmonella là một bệnh truyền qua thực phẩm phổ biến. Hầu hết các trường hợp thường nhẹ, nhưng bệnh có thể trở nên nghiêm trọng và ảnh hưởng đến bất kỳ ai. Những người có nguy cơ cao nhất là trẻ em dưới 5 tuổi, người già từ 65 tuổi trở lên, phụ nữ mang thai và những người có vấn đề về sức khỏe.
TS. Fred Unger, Trưởng đại diện khu vực của Viện nghiên cứu Chăn nuôi Quốc tế (ILRI) tại Đông và Đông Nam Á cho biết, sau khi can thiệp, tỷ lệ nhiễm khuẩn Salmonella trên thịt lợn bán lẻ tại Việt Nam đã giảm từ 52% trước đó xuống 24% hiện nay.
“Dự án SafePORK đã triển khai một số biện pháp can thiệp đơn giản và hỗ trợ xây dựng năng lực giúp giảm mầm bệnh Salmonella trong chuỗi. Nhóm cũng tiến hành khảo sát với các chủ thể tham gia chuỗi giá trị thịt lợn quy mô nhỏ”, TS. Fred Unger cho biết thêm.
Đồng quan điểm với TS. Phạm Đức Phúc, tại sự kiện, các thành viên của dự án đến từ Đại học Y tế công cộng (HUPH) cũng đưa ra thông tin đáng quan tâm: Ở Việt Nam, hơn 80% thịt lợn được bán ở các chợ truyền thống. Việc bày bán tại chợ đang tiềm ẩn các mối nguy cơ lan tràn, lo ngại về an toàn thực phẩm ngày càng gia tăng.
Không chỉ tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn thực phẩm do nhiễm vi sinh vật, đáng lo hơn, nhiều sản phẩm thịt lợn ở Việt Nam còn có chất kháng sinh, thậm chí hóa chất - gây tác hại cho sức khỏe nhiều hơn là vi khuẩn.
Thịt lợn là loại thịt được tiêu thụ nhiều nhất ở Việt Nam và mức độ nhiễm khuẩn Salmonella trong thịt lợn rất cao. (Nguồn: VNE) |
TS. Shirley Tarawali - quyền Tổng giám đốc ILRI - nhấn mạnh: “Các nghiên cứu và biện pháp can thiệp của SafePORK đã đóng góp đáng kể vào việc cải thiện an toàn thịt lợn tại Việt Nam; đồng thời hỗ trợ nhiều sinh kế cho người dân. Những bài học có giá trị từ dự án này sẽ giúp hướng tới hệ thống thực phẩm an toàn hơn cho Việt Nam và hơn thế nữa”.
Sau khi tiến hành khảo sát với các chủ thể tham gia chuỗi giá trị thịt lợn quy mô nhỏ, nhóm nghiên cứu của dự án đã tìm thấy 7 nguyên nhân chính được xác định là nguyên nhân hàng đầu khiến thịt lợn mất an toàn là: vệ sinh kém, bảo quản, chế biến không đúng kỹ thuật, thời gian vận chuyển thịt dài, dịch bệnh, thịt lợn không rõ nguồn gốc, đầu vào kém chất lượng.
Nhóm nghiên cứu đã giới thiệu gói can thiệp nhằm cải thiện thực hành vệ sinh. Gói can thiệp bao gồm việc tách riêng thịt lợn sống, thịt lợn chín và nội tạng, đồng thời lau rửa thường xuyên các bề mặt, thiết bị và tay của người bán hàng.
Một gói can thiệp cũng được giới thiệu tại các lò mổ, bao gồm việc sử dụng tấm thép không gỉ để ngăn thân thịt tiếp xúc với sàn, rửa tay và bề mặt thường xuyên, đồng thời phân tách tốt hơn các khu vực sạch và bẩn để giảm ô nhiễm thân thịt.
Tại Hội thảo, nhóm cán bộ dự án SafePORK đã chia sẻ những phát hiện chính và một số biện pháp can thiệp mang tính thực tế và hiệu quả về mặt chi phí, giúp thịt lợn an toàn hơn trong chuỗi giá trị thịt lợn quy mô nông hộ nhỏ tại Việt Nam. Nhóm cũng thảo luận về cách thức để nhân rộng các quy mô can thiệp trong giai đoạn tới.
Sau phiên toàn thể là phiên làm việc buổi chiều với sự tham gia của nhiều đối tác dự án. Hội thảo đã thảo luận về các bài học kinh nghiệm và định hướng tiếp theo. Những khuyến nghị, bài học và cơ hội mở rộng quy mô và tiềm năng nghiên cứu sâu hơn cũng đã được thảo luận.
| Cơ hội cho ngành chăn nuôi, thủy hải sản Việt Nam VIV Asia - Triển lãm quốc tế lớn nhất châu Á về chuyên ngành chăn nuôi, thủy hải sản, chế biến thịt, trứng, sữa sẽ ... |
| TH true MILK: Câu chuyện thú vị của ngành chăn nuôi Việt Nam TH true MILK là sản phẩm của trang trại bò sữa TH ở tỉnh Nghệ An, Việt Nam, được Tổ chức Kỷ lục châu Á ... |
| Phải hình thành được chuỗi giá trị khép kín Nêu những nguyên nhân căn bản khiến ngành chăn nuôi gặp khó khăn, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nhấn mạnh để phát triển ngành chăn nuôi, ... |
| Cơ hội giao thương cho ngành chăn nuôi, chế biến ILDEX Việt Nam 2018 - Triển lãm quốc tế lần thứ 7 tại Việt Nam chuyên ngành chăn nuôi, thú y, ngành sữa, chế biến ... |
| Trung Quốc ứng dụng AI, blockchain...để tạo đột phá cho ngành chăn nuôi Các ứng dụng công nghệ như sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) nhận diện khuôn mặt lợn, blockchain để nuôi gà… là những bước ... |