Năm nay, kinh tế Việt Nam có những thuận lợi cơ bản từ đà phục hồi ấn tượng của năm trước. |
Năm nay, kinh tế Việt Nam có những thuận lợi cơ bản từ đà phục hồi ấn tượng của năm trước. Việt Nam trở thành nền kinh tế lớn thứ tư của ASEAN và nằm trong tốp 40 thế giới, năng động và có độ mở cao, quy mô thương mại quốc tế nằm trong Top 20 toàn cầu với cộng đồng khoảng 900.000 doanh nghiệp và doanh nhân ngày càng lớn mạnh. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý I/2023 tăng 13,9%. Chỉ số hạnh phúc toàn cầu tăng 12 bậc trong xếp hạng của Liên hợp quốc năm 2023.
Một bức tranh khác
Tuy nhiên, năm 2023, Việt Nam cũng như nền kinh tế thế giới có nhiều khó khăn hơn năm 2022, tổng cầu giảm, giảm sút đơn hàng, thu hẹp thị phần xuất khẩu. Các nước phải đối mặt với thực trạng các đối tác xuất khẩu gia tăng các hàng rào kỹ thuật, kiểm soát chất lượng, xuất xứ sản phẩm ngày càng nghiêm ngặt.
Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế trên thế giới chậm lại; áp lực lạm phát và nợ công, nợ xấu ở mức cao. Giá một số mặt hàng chiến lược, nguyên vật liệu đầu vào không ổn định, thị trường năng lượng và nhiều xung đột địa chính trị khu vực diễn biến bất thường, gây hệ lụy tiêu cực khó lường cho kinh tế mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Đặc biệt, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đa phần là nhỏ và vừa, sức cạnh tranh và khả năng đổi mới sáng tạo không cao, lợi nhuận thấp, dễ bị tổn thương, phụ thuộc nhiều vào nguồn cung ngoại nhập. Song song đó là vốn vay tín dụng chịu lãi suất cao, sự trì trệ của thị trường chứng khoán, bất động sản và các chi phí không chính thức chậm cải thiện. Nợ của nhiều doanh nghiệp tăng mạnh; nhiều doanh nghiệp buộc phải cắt giảm lao động, giờ làm, dẫn đến giảm động lực tăng trưởng kinh tế, tăng áp lực thu nhập và bảo đảm an sinh xã hội…
Theo Tổng cục thống kê, GDP quý I/2023 tăng 3,32% so với cùng kỳ năm trước, với xu hướng suy giảm nhiều chỉ số kinh tế quan trọng, như: giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp giảm 0,82%; Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,9%. Doanh nghiệp đăng ký mới giảm 2% về số lượng, giảm 34,1% về vốn đăng ký, giảm 32,8% vốn đăng ký bình quân và giảm 12,8% về số lao động; số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế giảm 35,8%. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động cũng giảm 10%. Đồng thời, có tới 38,5% số doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được hỏi đánh giá gặp khó khăn trong quý I/2023 so với quý IV/2022 và 20,6% số doanh nghiệp dự báo quý II/2023 sẽ khó khăn hơn quý I/2023.
Tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/3 đạt 5,45 tỷ USD, giảm tới 38,8% và FDI thực hiện cũng giảm so với cùng kỳ năm trước. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 154,27 tỷ USD, giảm 13,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu giảm 11,9%; nhập khẩu giảm 14,7% và xuất siêu 4,07 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 5,44 tỷ USD, tăng 238,3%; nhập khẩu dịch vụ 5,66 tỷ USD, giảm 4,3%; nhập siêu dịch vụ là 216 triệu USD.
Ngoài ra, năm 2023, Việt Nam tiếp tục chịu sức ép lạm phát tiền tệ, lạm phát chi phí đẩy và lạm phát ngoại nhập cao. Quý I/2023, CPI bình quân tăng 4,18% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân tăng 5,01%.
Người dân và doanh nghiệp là trung tâm phục vụ
Trong bối cảnh khó khăn đó, Quốc hội và Chính phủ đã chủ động, kịp thời ban hành nhiều nghị quyết và biện pháp hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp, như các Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội: về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; Nghị quyết 84/NQ-CP, Nghị quyết số 42/NQ-CP, Nghị quyết 68/NQ-CP, Nghị quyết số 01/NQ-CP; Nghị định 52, Nghị định 75, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội; Chỉ thị 03/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau Tết Nguyên đán…
Tinh thần chung của Chính phủ là xem người dân và doanh nghiệp là chủ thể, là trung tâm phục vụ; đẩy mạnh hợp tác công tư, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; nguồn lực nhà nước dẫn dắt, kích hoạt mọi nguồn lực ngoài nhà nước; nỗ lực thực chất và đồng bộ đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; tăng cường đối thoại, tham vấn ý kiến, đồng hành, lắng nghe, chia sẻ và quyết liệt giải quyết, xử lý những khó khăn, vướng mắc, kiến nghị của doanh nghiệp, đẩy lùi tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng có biện pháp nhằm khơi dậy nội lực, xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo khuyến khích mạnh mẽ sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp tư nhân trong nước, nhất là trong các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, công nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin; tăng cường thu hút các tập đoàn đa quốc gia và liên kết giữa khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước phát triển chuỗi cung ứng quốc gia và quốc tế bảo đảm chất lượng, quy định về truy xuất nguồn gốc; tăng cường kết nối cung-cầu lao động, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số...
Một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp có kết quả tốt, như chính sách cho vay doanh nghiệp (hoãn giãn nợ, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi, phí).
Theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đang chủ động linh hoạt sử dụng các nghiệp vụ thị trường mở, hạ lãi suất điều hành và một số mức lãi suất cho vay, hỗ trợ thanh khoản, nới room tín dụng và khuyến khích các tổ chức tín dụng cải thiện mặt bằng lãi suất vay, nhanh chóng giải ngân cho các doanh nghiệp hội đủ các điều kiện hoặc vay và khả năng trả nợ. Theo nhiều chủ doanh nghiệp, để đầu tư mở rộng sản xuất, đón đầu nhu cầu thị trường dự kiến sẽ cải thiện từ quý III/2023 thì doanh nghiệp cần dòng vốn dài hạn 7-10 năm, với lãi suất không quá 10%/năm.
Với những nỗ lực của Chính phủ, các cơ quan và cấp chính quyền, các doanh nghiệp, có nhiều căn cứ để kỳ vọng Việt Nam đạt được mức tăng trưởng 6,5% như mục tiêu kế hoạch đề ra và dự báo của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Việt Nam ngày 5/4, trở thành một trong những nền kinh tế có mức tăng trưởng cao nhất khu vực năm 2023.