CHDCND Triều Tiên diễu binh kỷ niệm 60 năm kết thúc chiến tranh Triều Tiên. |
Nhưng, từ đó đến nay, đất nước này vẫn bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc và cũng ngần ấy thời gian, dân tộc Triều Tiên vẫn phải sống trong tình trạng "không có chiến tranh, nhưng cũng chẳng có hòa bình", thậm chí có lúc gay gắt, có nguy cơ xảy ra chiến tranh.
Chiến tranh Triều Tiên (CTTT) hay "Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc" theo cách gọi của CHDCND Triều Tiên và "Chiến tranh ngày 25/6" theo cách gọi của Hàn Quốc - về bản chất vừa mang dáng dấp của một cuộc nội chiến giữa hai miền Nam-Bắc, vừa mang hình thái xung đột vũ trang tầm thế giới, với sự tham dự của hơn 20 nước. Đây cũng là cuộc chiến đầu tiên mà một bên tham gia được đứng dưới danh nghĩa và ngọn cờ của Liên Hợp Quốc (LHQ). Còn về diễn biến, CTTT chỉ chấm dứt trên danh nghĩa. Sau 60 năm, hai miền Triều Tiên vẫn trong tình trạng chiến tranh, khi mà các bên liên quan vẫn chưa thể ký kết một Hiệp định hòa bình. Tại sao?
Từ Hiệp định "tạm thời"...
Theo giới học giả, trật tự thế giới hai cực sau Thế chiến II với đặc trưng quan hệ Mỹ-Liên Xô (LX) chuyển từ trạng thái hợp tác sang đối đầu là nguyên nhân cơ bản, quan trọng nhất dẫn đến CTTT.
Ngược dòng lịch sử, bán đảo Triều Tiên nằm dưới ách thống trị của đế quốc Nhật Bản từ năm 1910-1945. Thế chiến II kết thúc, quân Nhật đầu hàng quân đồng minh, LX và Mỹ tiến vào để giải giáp quân Nhật. Theo thỏa thuận tại Hội nghị Moscow (1945), hai cường quốc này sẽ thực hiện chế độ quân quản trên bán đảo Triều Tiên với thời gian ủy trị 5 năm. LX ở miền Bắc, còn Mỹ ở miền Nam, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới. Song Mỹ không tuân thủ thỏa thuận, thúc đẩy tiến hành tổng tuyển cử sớm tại miền Nam năm 1948, dựng lên chính quyền Lý Thừa Vãn, thành lập Đại Hàn Dân quốc ở phía nam. Đáp lại, Bắc Triều Tiên tiến hành bầu cử Quốc hội và thành lập nước CHDCND Triều Tiên (9/1948) do Chủ tịch Kim Nhật Thành đứng đầu. Căng thẳng hai miền ngày một tăng.
Tuy nhiên, bên nào phát động chiến tranh thì cho đến nay vẫn còn tranh cãi. CHDCND Triều Tiên cho rằng, dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, quân đội Hàn Quốc bất ngờ tấn công Triều Tiên, buộc Chủ tịch Kim Nhật Thành phải ra lệnh đáp trả. Các tài liệu của Mỹ và Hàn Quốc lại nhìn nhận ngược lại. Trên thực địa, ngày 25/6/1950, quân đội CHDCND Triều Tiên đã vượt vĩ tuyến 38 hướng về Seoul. Với quân số đông và vũ khí mạnh, quân đội Triều Tiên nhanh chóng chiếm Seoul chỉ sau 4 ngày.
Để bảo vệ đồng minh, duy trì ảnh hưởng, lợi ích tại khu vực có tầm quan trọng địa chiến lược này, Mỹ buộc phải can dự. Dưới sự vận động của Mỹ, HĐBA/LHQ đã liên tiếp thông qua Nghị quyết (NQ) số 82, 83, lên án Triều Tiên "xâm lược" Hàn Quốc, kêu gọi Triều Tiên rút quân, đồng thời cho phép trợ giúp quân sự cho Hàn Quốc. Ngày 7/7/1950, HĐBA tiếp tục thông qua NQ số 84, kêu gọi các nước thành viên LHQ gửi quân tham gia "Đội quân LHQ". LX không thực hiện quyền phủ quyết do tạm thời vắng mặt tại HĐBA để phản đối việc cho phép Đài Loan nắm ghế thường trực trong HĐBA. Tháng 8/1950, LX trở lại HĐBA và phủ quyết mọi NQ liên quan đến can thiệp của quốc tế vào Triều Tiên, nhưng đã muộn. Tháng 11/1950, ĐHĐ/LHQ thông qua NQ "Thống nhất vì hòa bình", nêu rõ quyền ra NQ trước "các hành động vi phạm hòa bình" sẽ thực hiện tại ĐHĐ, trong trường hợp có bên phủ quyết tại HĐBA. Dưới danh nghĩa này, Mỹ đã kéo được hơn 20 nước, trong đó 15 nước gửi quân trực tiếp, số còn lại cung cấp, trợ giúp vũ khí.
Từ đây, diễn biến và tương quan lực lượng trên chiến trường thay đổi lớn. Từ thế bị động, Liên quân do Mỹ đứng đầu tiến hành phản công, vượt vĩ tuyến 38, chiếm Bình Nhưỡng và đẩy quân Triều Tiên về sát sông Áp Lục, giáp ranh Trung Quốc (TQ). Tình huống này buộc TQ phải tung hàng trăm ngàn "quân chí nguyện" sang Triều Tiên. ĐHĐ LHQ lập tức tuyên bố TQ xâm lược Triều Tiên, yêu cầu TQ rút quân về nước. Ngày 27/7/1953, tại làng Bàn Môn Điếm, giới tuyến phân cách hai miền Nam-Bắc Triều Tiên, các bên liên quan đã ký Hiệp định đình chiến (HĐĐC).
Đến kết cục "nửa vời"
Theo giới nghiên cứu, tuy được soạn thảo theo thể thức của một HĐĐC thông thường có sự soi chiếu theo luật pháp quốc tế, song HĐĐC Triều Tiên lại bị xem là có nhiều hạn chế về tính pháp lý, không ràng buộc được trách nhiệm thực thi của các bên liên quan, vì thế ít có giá trị thực tiễn.
Thông thường, tính pháp lý trước hết được quyết định bởi mục đích chính trị. Nhưng trong HĐ này, mục đích đó không rõ ràng. Ngay từ đầu các bên đã không đề cập đến mục đích chính trị của HĐ. Tại Lời mở đầu, vai trò của HĐ dừng lại ở việc "hướng đến việc ngừng bắn, chấm dứt các hành động thù địch giữa hai phía". Tính chất của HĐ là tạm thời: "chờ cho đến khi đạt được thỏa thuận hòa bình cuối cùng". Đặc biệt, những người soạn thảo nhấn mạnh các nội dung của HĐ chỉ mang "đặc trưng quân sự", trong khi xét dưới góc độ luật pháp quốc tế, HĐĐC là một văn bản pháp lý mang ý nghĩa chính trị nặng hơn quân sự. Điểm mấu chốt nhất trong HĐ là tổ chức hội nghị chính trị. Thế nhưng, Điều 4 của HĐ chỉ đề cập một cách sơ lược là, sau 3 tháng HĐ chính thức có hiệu lực, Tư lệnh quốc phòng hai phía sẽ đề xuất với các Chính phủ của mình tiến hành hội nghị chính trị cấp cao, đàm phán rút quân đội nước ngoài khỏi bán đảo Triều Tiên, giải quyết các bất đồng còn tồn đọng thông qua biện pháp hòa bình.
Ngoài việc bên thực thi HĐ không được đề cập rõ ràng, thì HĐ cũng có rất nhiều điều khoản đề cập đến các khái niệm như "bên liên quan", "Hội nghị chính trị giữa hai phía"... Song không có điều khoản nào giải thích thuật ngữ chỉ rõ đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của HĐ. Cụ thể, HĐ không nêu tên một nước, một tổ chức, một thực thể nào để quy trách nhiệm thực thi của các bên.
Đặc biệt, tính pháp lý được thể hiện yếu nhất khi xét đến chủ thể tham gia ký kết. Thông thường, HĐĐC được ký kết bởi Tư lệnh hay người đứng đầu quân đội của hai phía tham chiến. Trong HĐ này, vấn đề trở nên phức tạp khi khái niệm "hai phía" lại bao gồm “nhiều bên". "Phía Bắc" với Triều Tiên, Trung Quốc, "Phía Nam" ít nhất có Mỹ, Hàn Quốc. Song dường như chỉ CHDCND Triều Tiên là có địa vị pháp lý rõ ràng, khi Đại tướng Nam Il với danh nghĩa Tư lệnh tối cao quân đội Triều Tiên, có đủ thẩm quyền đại diện cho chính quyền miền Bắc. Nhưng việc vị tướng này lấy tư cách Tư lệnh "lực lượng quân chí nguyện TQ" để ký vào bản HĐ lại gây tranh cãi. TQ là một bên liên quan đến cuộc chiến và HĐ. Theo luật pháp quốc tế, bên liên quan được hiểu là các nhà nước, không phải là đại diện các nhóm hay tổ chức quân sự vì gắn với trách nhiệm thực thi HĐ sau này. Còn ở "Phía Nam", Hàn Quốc không kí HĐ là thiếu sót lớn, vì Hàn Quốc đương nhiên là một bên tham chiến. Địa vị pháp lý của Mỹ còn mập mờ hơn cả TQ. Tướng William Harrison thay mặt Bộ Chỉ huy quân đội LHQ ký vào HĐ, có nghĩa ông lấy tư cách người đại diện cho các bên tham chiến đứng về phía Hàn Quốc. Ông William Harrison là tướng người Mỹ, là tư lệnh đội quân LHQ, nhưng không có nghĩa Mỹ là một bên ký kết HĐ.
Nói chung, tính pháp lý yếu đưa đến hệ quả không ràng buộc được trách nhiệm của các bên, nhất là hai phía ký kết đã không trở thành hai bên thực thi. Nhiều học giả nhìn nhận, HĐĐC Triều Tiên vì thế ngay từ đầu đã không có giá trị thực tiễn.
Và khát vọng thống nhất cũng là rào cản
Tất nhiên, sau chiến tranh, các nhà lãnh đạo cả hai miền vẫn có không ít nỗ lực nhằm thống nhất, hoặc chí ít tạo ra sự kết dính giữa hai miền, thậm chí, kể cả khi hai miền Triều Tiên trở thành thành viên LHQ (17/9/1991). Điển hình là trong thể thao, tuy chưa bao giờ thành lập được đội tuyển chung, nhưng đội tuyển hai miền đã diễu hành chung tại lễ khai mạc các kỳ Olympic và Á vận hội... Nhưng khát vọng thống nhất cũng chính là rào cản đối với sự hòa giải thật sự.
Trong bài viết Chiến tranh Triều Tiên: Âm hưởng sau 60 năm mới đây, TS. Đỗ Sơn Hải (Học viện Ngoại giao) nhận định, thời gian và thời thế đổi thay khiến cách người dân hai miền nhìn nhận vấn đề thống nhất cũng biến chuyển. Sự khác biệt về trình độ phát triển giữa hai miền ngày một lớn đã làm nảy sinh tư tưởng "ai thống nhất ai". Những nghi kỵ từ thời chiến tranh vì thế lại có điều kiện trỗi dậy.
Theo tác giả, chính tính chất quốc tế hóa cao độ đã khiến cho tiến trình đàm phán 6 bên (bắt đầu từ năm 2003 và bị ngưng trệ từ cuối năm 2008 đến nay) luôn rơi vào bế tắc. Thậm chí, sự can thiệp quốc tế khiến thật khó phân biệt lý do căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên là từ bên ngoài hay chỉ đơn thuần là do quan hệ hai miền. Đặc biệt, chính vì cả hai miền cùng gia nhập LHQ nên buộc họ phải chấp nhận sự can thiệp ngày càng sâu hơn qua những phán quyết của tổ chức toàn cầu này...
Vấn đề hạt nhân là một ví dụ. Do lo sợ chiến tranh ập đến bởi hiệp ước hòa bình chưa được ký kết, nên hai miền buộc phải đầu tư cho quân sự. Và đỉnh điểm chính là lúc CHDCND Triều Tiên tuyên bố có hạt nhân (10/2/2005). Rõ ràng, hiệp định hòa bình phải là điều kiện tiên quyết để có thể đem lại cuộc sống an bình cho dân tộc Triều Tiên. Song hiện tại, để Chiến tranh Triều Tiên thực sự đi vào dĩ vãng lại cần tới ít nhất 2 hiệp ước hòa bình: một giữa hai miền và một giữa CHDCND Triều Tiên và Mỹ. Đối với Mỹ, điều kiện tiên quyết là CHDCND Triều Tiên phải ngừng chương trình hạt nhân, và vì thế, kết cục luôn là bế tắc. Còn với hai miền, hiệp ước chỉ có thể được ký kết khi có thêm được sự đồng thuận của các đồng minh. Đó là chuyện không hề đơn giản.
Tóm lại, vì những lý do trên mà 60 năm đã trôi qua, hòa bình và thống nhất đất nước vẫn là niềm mong mỏi của nhân dân hai miền Nam-Bắc Triều Tiên. Và đến hẹn lại lên, hàng năm người dân hai miền vẫn đều đặn kỷ niệm ngày cuộc chiến kết thúc với một thông điệp như nhau: “Đừng bao giờ để một cuộc chiến tương tự lặp lại”.
Viên Hòa tổng hợp