Các diễn giả trong Phiên 4 Hội thảo Khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 13. (Nguồn: NVCC) |
Trong số 8 phiên tại Hội thảo Khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 13 vừa diễn ra, phiên 4 với tên gọi “Hãy công bằng với sự thật lịch sử” là một trong những nội dung được quan tâm nhất.
Hội thảo với chủ đề “Nhìn lại quá khứ vì một tương lai tươi sáng hơn”, thu hút gần 600 đại biểu trực tiếp và trực tuyến, đã có nhiều phiên thảo luận sôi nổi về nhiều vấn đề xoay quanh Biển Đông.
Cần thiết phải xem xét lịch sử
Tại sự kiện, phiên 4 thảo luận về lịch sử Biển Đông quy tụ nhiều diễn giả nổi tiếng, bao gồm TS. Erik Solheim, nguyên Giám đốc Điều hành Chương trình Môi trường Liên hợp quốc, nguyên Bộ trưởng Môi trường và Phát triển Na Uy (với vai trò chủ trì), GS. Monique Chemillier-Gendreau (Đại học Paris Diderot, Pháp), TS. Vũ Hải Đăng (Trung tâm Luật pháp quốc tế, Đại học Quốc gia Singapore), nhà nghiên cứu độc lập Carl Zha (Trung Quốc) và cựu nhà báo Bill Hayton (Viện Chatham House, Anh).
Các diễn giả đã tập trung vào diễn giải thông qua những nghiên cứu và bằng chứng lịch sử mới, những phân tích đa chiều về các văn bản quan trọng trong thời kỳ hậu Thế chiến II và Chiến tranh Lạnh, bao gồm Hiệp ước San Francisco sau 70 năm ký kết và Hiệp ước Hòa bình Trung - Nhật năm 1952.
Nhà nghiên cứu Carl Zha nói, việc xem xét lịch sử yêu sách của Trung Quốc là cần thiết bởi Trung Quốc là nước tranh chấp lớn nhất tại Biển Đông.
Ông Zha cũng đưa ra các di vật, văn bản và bản đồ thời nhà Hán, nhà Tống và nhà Thanh… để chứng tỏ hiện diện của Trung Quốc tại đây, đồng thời cho rằng Trung Quốc là nước đầu tiên khẳng định chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong lịch sử hiện đại.
Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu cũng nhắc tới nhiều ấn phẩm của phương Tây, bao gồm ghi chép của cựu Đại sứ Mỹ Chas Freeman và bản đồ thế giới năm 1967 của Liên Xô, cho thấy các bên không phản đối các hoạt động xác lập chủ quyền của Trung Quốc vào thế kỷ XIX.
2 lập luận phản bác yêu sách của Trung Quốc
Tuy nhiên, các diễn giả còn lại đã đưa ra lập luận phản bác quan điểm trên.
Thứ nhất, Trung Quốc không phải là nước đầu tiên tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông.
GS. Monique Chemillier-Gendreau cho biết, không có triều đại nào ở Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa trước năm 1909. Chính quyền Quốc dân Đảng chỉ chiếm giữ Hoàng Sa trong thời gian ngắn (1947-1950) và chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đến năm 1988 mới chiếm đóng Trường Sa.
Học giả Bill Hayton cũng đưa ra bằng chứng chứng tỏ triều đại nhà Thanh không tuyên bố chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa. Khi hai tàu SS Bellona của Đức và Himeji Maru của Nhật (do công ty của Anh bảo hiểm) gặp sự cố tại Hoàng Sa, quan chức thời nhà Thanh đã gửi đại diện lãnh sự Anh tại Trung Quốc hai bức thư, trong đó phủ nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với hai tàu trên và gọi địa điểm xảy ra vụ việc bằng thuật ngữ “biển cả”.
Theo ông Hayton, hai bức thư cho thấy nhà Thanh đã phủ nhận chủ quyền với Hoàng Sa và thậm chí có thể không biết đến sự tồn tại của quần đảo này vào thời điểm đó.
TS. Vũ Hải Đăng cũng khẳng định thêm rằng, Việt Nam là quốc gia đầu tiên tuyên bố chủ quyền và là quốc gia duy nhất liên tục quản lý hoà bình Hoàng Sa và Trường Sa theo luật pháp quốc tế. Từ khoảng thế kỷ XV, triều đình nhà Nguyễn đã bắt đầu các hoạt động khai thác tại hai quần đảo.
GS. Monique Chemillier-Gendreau phát biểu trực tuyến tại Hội thảo, đưa ra lập luận phản bác yêu sách của Trung Quốc với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. (Nguồn: DAV) |
Thứ hai, các văn kiện quốc tế không khẳng định chủ quyền của Trung Quốc.
GS. Monique cho biết, Tuyên bố Hội nghị Cairo 1943 (dù có Tưởng Giới Thạch tham gia) không nhắc tới Hoàng Sa và Trường Sa trong số các lãnh thổ mà Nhật Bản phải trao trả cho Trung Quốc.
Với Hiệp ước San Francisco 1951, GS. Monique và TS. Vũ Hải Đăng đều khẳng định, hai văn bản không công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ mà Nhật Bản phải trao trả lại cho Trung Quốc; chỉ từ bỏ quyền kiểm soát của Nhật đối với hai quần đảo; đại diện Liên Xô tại San Francisco đã đề xuất thêm Hoàng Sa và Trường Sa vào cùng với Đài Loan và đảo Bành Hồ để trả lại cho Trung Quốc nhưng hội nghị không đồng ý.
Việc này chứng tỏ hội nghị không cho rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc và phải trả lại cho Trung Quốc.
Với Hiệp ước Trung - Nhật 1952, GS. Monique cho biết, Điều II Hiệp ước công nhận kết quả của Hiệp ước San Francisco rằng Nhật Bản từ bỏ chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Vì Hiệp ước San Francisco không khẳng định Nhật Bản phải trao hai quần đảo này cho Trung Quốc, Hiệp ước Trung – Nhật cũng không công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này.
TS. Vũ Hải Đăng cũng khẳng định thêm rằng, Công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai chỉ nhằm tuyên bố Việt Nam ủng hộ chính sách “Một Trung Quốc” trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, khi Hạm đội 7 của Mỹ tiến vào Eo biển Đài Loan.
Lịch sử đóng vai trò quan trọng trong mọi tranh chấp lãnh thổ nhưng lại thường được diễn giải theo nhiều cách khác nhau để phục vụ các lợi ích khác nhau. Do đó, việc tranh luận thẳng thắn và thông tin rộng rãi về giá trị của các bằng chứng và văn kiện lịch sử dù trong thời đại nào cũng là cần thiết. Hy vọng, các kỳ hội thảo Biển Đông sắp tới sẽ tiếp tục truyền thống này.*
* Bài viết phản ánh quan điểm của tác giả.
| Hội thảo quốc tế về Biển Đông lần thứ 13, những điểm nhấn, đồng thuận và khác biệt Vấn đề Biển Đông xuất hiện trong nhiều chương trình nghị sự của diễn đàn, hội nghị đa phương thế giới, khu vực. Một trong ... |
| Hội thảo Khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 13: Kết quả nổi bật cả về nội dung lẫn hình thức tổ chức Theo Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ, Hội thảo Khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 13 ... |