📞

Mở tiềm năng bể Cửu Long bằng “phương pháp tiết kiệm”

16:51 | 29/10/2015
Tận dụng những hạ tầng công trình mỏ “nhàn rỗi”, kết nối chúng với những dự án dầu khí mới tại bể Cửu Long đã mở ra hướng đầu tư phát triển hầu hết các mỏ dầu khí ở khu vực này, mang lại nguồn thu lớn cho đất nước.
Tại vùng bể Cửu Long nhiều công trình dầu khí đã thành công như các mỏ Rồng, Rạng Đông, Ruby, Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng và gần đây là mỏ Tê Giác Trắng.

Đề tài “Nghiên cứu quy hoạch phát triển tổng thể các mỏ dầu khí bể Cửu Long trên cơ sở tối ưu hóa hệ thống công nghệ và thiết bị khai thác hiện hữu” vừa hoàn thành xuất sắc, được đánh giá là có giá trị cao về tính khoa học. Đây là một đề tài nghiên cứu khoa học dầu khí quy mô lớn đã được các nhà quản lý, chuyên gia của Tổng Công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí (PVEP) triển khai thực hiện trong suốt bốn năm qua.

Tận dụng tối đa

Hoạt động phát triển và khai thác các mỏ dầu khí tại bể Cửu Long đã được bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ trước bằng việc Liên doanh Dầu khí Vietsovpetro đưa mỏ Bạch Hổ vào khai thác. Tiếp theo đó là những thành công từ các mỏ Rồng, Rạng Đông, Ruby, Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng và gần đây là mỏ Tê Giác Trắng.

Đến nay, tại bể Cửu Long hiện đang có một hệ thống cơ sở hạ tầng công trình biển và thiết bị xử lý dầu khí phục vụ khai thác đồ sộ. Tuy nhiên, phần lớn các mỏ đang khai thác hiện đã trải qua giai đoạn khai thác đỉnh và ở giai đoạn suy thoái sản lượng. Trong khi bể Cửu Long đang dư thừa công suất, thì còn nhiều phát hiện và cấu tạo tiềm năng khác có trữ lượng thu hồi tương đối thấp hoặc dự án sẽ không thu được hiệu quả kinh tế nếu phải tiến hành đầu tư phát triển độc lập.

Trong thực tế thăm dò và phát triển khai thác bể Cửu Long thời gian qua, PVEP đã nghiên cứu khả năng sử dụng công nghệ và hệ thống thiết bị sẵn có để kết nối vào các mỏ mới, nhằm gia tăng hiệu quả sử dụng thiết bị và giảm chi phí, góp phần tối ưu hóa chi phí đầu tư và vận hành, gia tăng hiệu quả khai thác, nhằm tận thu tối đa tài nguyên dầu khí trong bể Cửu Long. Giải pháp phát triển kết nối các mỏ nhỏ vào hệ thống thiết bị sẵn có ở lân cận đã được triển khai áp dụng với mức độ an toàn và hiệu quả cao như: Giàn đầu giếng Cá Ngừ Vàng kết nối về giàn công nghệ trung tâm số 3 (CPP-3) mỏ Bạch Hổ năm 2008; các giàn nhẹ RC-04 và RC-DM thuộc mỏ Nam Rồng - Đồi Mồi kết nối về giàn RC-1 thuộc hệ thống thiết bị mỏ Rồng năm 2009; và các giàn đầu giếng mỏ Hải Sư Đen, Hải Sư Trắng kết nối về giàn H4-TGT thuộc hệ thống thiết bị khai thác mỏ Tê Giác Trắng năm 2013.

Đây là minh chứng rõ nét cho việc phương án phát triển kết nối phù hợp áp dụng cho các mỏ và cấu tạo tiềm năng dầu khí thuộc loại nhỏ, cận biên với mục tiêu mang lại hiệu quả kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh giá dầu thấp. Phương án này được giới chuyên gia dầu khí đánh giá là hoàn toàn phù hợp, khả thi về kỹ thuật và triển vọng về hiệu quả kinh tế.

Chìa khóa cho nhiều dự án mới

Trên cơ sở các tiêu chí, công trình đã đưa ra phương án phát triển đề xuất cho từng trường hợp các cấu tạo, lô cụ thể. Một khối lượng công việc đánh giá rất lớn đã được thực hiện với kết quả là xác định được 65 phương án phát triển, trong đó có 32 phương án phát triển độc lập và 33 phương án phát triển kết nối cho 12 lô dầu khí với 47 cấu tạo thuộc bể Cửu Long.

Các đề xuất đều có hướng mở, đảm bảo khả năng hiệu chỉnh khi có số liệu hoặc yêu cầu mới (các phát hiện mới, trữ lượng cập nhật, thiết bị hoặc công nghệ mới) và phù hợp với thực tế. Công trình nghiên cứu đã thử nghiệm và đề xuất được quy trình đánh giá các dự án phát triển khai thác mỏ dầu khí, trên cơ sở định lượng từ trữ lượng dầu khí tại chỗ, lượng dầu thu hồi, lựa chọn phương án thiết bị, cho tới hiệu quả đầu tư tổng thể của dự án khi kết nối cũng như phát triển độc lập.

Công trình Nghiên cứu quy hoạch phát triển tổng thể các mỏ dầu khí bể Cửu Long đã đề cập một cách toàn diện cả về nội dung và các vấn đề đặt ra đối với công tác quy hoạch phát triển mỏ trong giai đoạn 2014 - 2030. Cách giải quyết vấn đề mang tính khoa học, logic và đồng bộ góp phần cho định hướng phát triển khai thác các mỏ không chỉ ở bể Cửu Long mà trên toàn thềm lục địa Việt Nam.

Với độ tin cậy cao, đồng thời có giá trị lớn về mặt khoa học và công nghệ, công trình nghiên cứu của tập thể cán bộ và công nhân viên PVEP đã đạt được những kết quả mang tính chiến lược. Công trình này còn có thể được sử dụng như cẩm nang áp dụng, cũng như đào tạo cho lĩnh vực phát triển chung của công nghiệp khai thác dầu khí, do nội dung đã bao trùm hầu hết các lĩnh vực từ tìm kiếm thăm dò, đánh giá trữ lượng, đánh giá hiện trạng thiết bị cho tới sửa đổi điều khoản hợp đồng, đánh giá đầu tư cũng như hiệu quả kinh tế từ dự án.

Một số công nghệ mới thuộc lĩnh vực phát triển và khai thác dầu khí đã được nghiên cứu đánh giá chi tiết về khả năng áp dụng có hiệu quả cho bể Cửu Long như: Giàn MOPU (Mobile offshore Production Unit) với mục đích chuyên sử dụng cho các mỏ cận biên - khai thác sớm; Giàn khai thác và xử lý kết cấu nhẹ (Lightweight Wellhead Production Platform) được thiết kế về cơ bản tương tự như giàn khai thác không người thông thường, tuy nhiên có thêm các module xử lý dầu khí...

Về mặt thực tế, kết quả của đề tài đã cho thấy thực trạng hệ thống thiết bị công trình biển ở bể Cửu Long và đánh giá tính khả thi của việc đưa các mỏ, các cấu tạo cận biên vào khai thác với những định hướng rõ ràng cả về kỹ thuật và tính kinh tế theo một sơ đồ và lộ trình tổng thể.

Ý nghĩa to lớn về kinh tế - xã hội của đề tài đã khuyến khích đầu tư phát triển hầu hết các mỏ dầu khí ở bể Cửu Long, mang lại nguồn thu từ tài nguyên dầu khí cho đất nước.

Trung Kiên