Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Nga Putin tại gala kỷ niệm 70 năm quan hệ ngoại giao Trung-Nga, năm 2019. (Nguồn: Kremlin.ru) |
Cuộc khẩu chiến giữa Mỹ với Nga và Trung Quốc xoay quanh những mâu thuẫn trong tầm nhìn đa phương hồi tuần trước tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc một lần nữa phản ánh mối quan hệ chặt chẽ không ngừng được củng cố trong những năm gần đây giữa Moscow và Bắc Kinh.
Mối quan hệ đang "nở hoa" giữa Nga và Trung Quốc chắc chắn sẽ mang lại lợi ích chung cho cả hai nước, song đối với Moscow, mối quan hệ này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro và khiếm khuyết vốn có.
Nhu cầu chiến lược
Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov gần đây đã ca ngợi mối quan hệ Nga-Trung là "độc nhất", được thể hiện qua "bộ khung" là quan hệ đối tác toàn diện và tương tác chiến lược.
Không thể phủ nhận rằng hợp tác song phương Nga-Trung đã mở rộng cả về quy mô và chiều sâu trong một số lĩnh vực. Mối quan hệ này được dẫn dắt bởi mối quan hệ cá nhân tuyệt vời giữa Tổng thống Nga Vladimir Putin và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.
Thực tế, mối liên kết chặt chẽ hơn với Bắc Kinh là nhu cầu chiến lược của Moscow, đóng vai trò bù đắp những khoảng trống của Nga sau những tranh cãi giữa Nga với Mỹ và Liên minh châu ÂU (EU) vào năm 2014 cũng như nhiều mâu thuẫn về mặt chính trị và kinh tế khác.
Không chỉ có vậy, mối quan hệ này còn tiềm ẩn nhiều lợi ích khác.
Putin nhận thấy rằng mối quan hệ Nga-Trung gần gũi hơn sẽ khiến Mỹ và các đối tác phương Tây bất an, làm phức tạp hơn các tính toán chiến lược của Mỹ và nhấn mạnh vị thế của Moscow đối với Washington.
Các tính toán về chính trị, kinh tế và chính sách đối ngoại thực dụng cũng liên quan tới việc hình thành một mối quan hệ Nga-Trung gần gũi hơn.
Những tương đồng rõ ràng về chính trị đã phản ánh tính cách độc đoán của cả hai nhà lãnh đạo và hệ thống chính trị tại Nga và Trung Quốc. Điều này có ý nghĩa trên thực tế khi Nga áp dụng công nghệ nhận dạng khuôn mặt của Trung Quốc để tăng cường đảm bảo an ninh trong nước và tìm cách, dù vẫn còn hạn chế, “mô phỏng” chính sách kiểm duyệt và giám sát tự do Internet mà Trung Quốc triển khai.
Những bổ sung về mặt kinh tế tạo ra một động lực mạnh mẽ. Đối với Nga, một Trung Quốc "khát" tài nguyên là thị trường rộng lớn, đầy tiềm năng tăng trưởng và gần gũi về địa lý đối với các nhà xuất khẩu năng lượng, hàng hóa và nông sản.
Hơn nữa, Trung Quốc đem đến cho Nga những nhà sản xuất với giá thành cạnh tranh và nguồn đầu tư dồi dào (dù có thể chưa đủ những gì mà Nga mong muốn).
Kim ngạch thương mại song phương Nga-Trung trong năm 2020 đã đạt mức 100 tỷ USD và thị phần của Trung Quốc trong hoạt động thương mại của Nga đã tăng gần gấp đôi kể từ năm 2013.
Sự hội tụ chính sách
Về chính sách đối ngoại, Nga và Trung Quốc là hai quốc gia cùng chí hướng. Các lợi ích và chương trình nghị sự của hai nước đa phần phù hợp, cụ thể là cả hai cùng có mục tiêu thách thức vị trí bá chủ của Mỹ.
Moscow và Bắc Kinh cũng không thiện cảm với những điều mà họ xem là chủ nghĩa xét lại của phương Tây nhằm áp đặt “tự do” với trật tự thế giới dựa trên luật lệ, những gì mà cả 2 nhìn nhận như một công cụ củng cố sự thống trị của Mỹ.
Thay vào đó, Nga khẳng định vai trò trung tâm của khuôn khổ pháp lý quốc tế dựa trên nền tảng Liên hợp quốc, đặc biệt là nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền - một nguyên tắc mà Bắc Kinh mạnh mẽ tán thành.
Nga và Trung Quốc có những hội tụ về chính sách đối với các vấn đề quốc tế. Trong nhiều trường hợp, nếu không có những ủng hộ rõ ràng, Nga và Trung Quốc thường tránh phản đối gay gắt bên còn lại, hoặc trấn an rằng đối phương có sự hậu thuẫn nhất định.
Điều này đã được phản ánh qua thái độ thận trọng của Nga trước các hoạt động bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông và sự im lặng của Trung Quốc trước cuộc xâm lược mà Nga tiến hành tại Ukraine.
Việc Moscow phản đối khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương không chỉ phản ánh việc Nga chưa quyết định vị thế của mình trong cấu trúc, mà còn xuất phát từ lo ngại về khía cạnh kiềm chế Trung Quốc trong đó.
Hợp tác quân sự chặt chẽ hơn giữa hai nước đã thu hút sự chú ý đặc biệt. Hợp tác diễn ra từ việc Trung Quốc tham gia các cuộc tập trận quân sự quy mô lớn hằng năm của Nga, các cuộc tuần tra chung bằng máy bay ném bom trên vùng Biển Nhật Bản và các cuộc tập trận hải quân chung (bao gồm cả ở Ấn Độ Dương).
Về mặt lịch sử, Nga là nhà cung cấp vũ khí hàng đầu cho Trung Quốc, giúp Bắc Kinh hiện đại hóa các lực lượng vũ trang, với việc cung cấp máy bay chiến đấu SU 35 và hệ thống tên lửa S-400 - và thậm chí là hệ thống cảnh báo sớm.
Trong nhiều trường hợp, Nga và Trung Quốc thường tránh phản đối gay gắt bên còn lại, hoặc trấn an rằng đối phương có sự hậu thuẫn nhất định. (Nguồn: Reuters) |
Những giới hạn
Tuy nhiên, mối quan hệ này cũng có những giới hạn. Nga ở thế yếu trong mối quan hệ này - một mối quan hệ sẽ ngày càng bất đối xứng theo thời gian. Vì lẽ đó, Moscow sẽ tìm cách duy trì năng lực tự chủ chiến lược và tự bảo vệ mình trước nguy cơ bị lệ thuộc, dù là chính trị hay kinh tế.
Việc đạt được sự cân bằng phù hợp trong quan hệ với Bắc Kinh là điều không dễ dàng đối với Moscow. Trên phương diện kinh tế, Nga rất cần thị trường Trung Quốc để xuất khẩu năng lượng và hàng hóa, điều này cho phép Trung Quốc có quyền định đoạt các điều khoản trong mối quan hệ thương mại.
Việc duy trì mối liên kết hữu ích với Bắc Kinh, trong khi vẫn giữ được những khoảng linh hoạt cho Nga bằng cách đa dạng hóa quan hệ với các nước thứ ba, sẽ đầy thách thức.
Tình thế tiến thoái lưỡng nan này có thể thấy rõ qua mối quan hệ với Ấn Độ, nơi các hoạt động mở rộng hợp tác quốc phòng của Nga, đặc biệt là cung cấp các thiết bị quân sự tiên tiến, có thể sẽ vấp phải phản ứng từ Trung Quốc.
Nga sẽ theo dõi chặt chẽ mọi nỗ lực tăng cường sự hiện diện và ảnh hưởng của Trung Quốc trong không gian Xô viết cũ, nơi Moscow vẫn coi là phạm vi ảnh hưởng đặc quyền của mình. Moscow cũng cảnh giác với ý đồ của Bắc Kinh tại Bắc Cực, nơi Nga coi mình là một nhân tố chính.
Lịch sử cho thấy mối quan hệ khó có thể đến từ sự tin tưởng từ một phía. Sẽ có những người Nga, kể cả trong quân đội, lặng lẽ hoài nghi về các động thái củng cố quyền lực và tiềm lực của Trung Quốc. Những lo ngại này sẽ trở lại mạnh mẽ khi mối quan hệ xấu đi trong tương lai.
Thực tế, Mỹ và các đồng minh không có nhiều không gian và khả năng tác động tới mối quan hệ này. Tuy nhiên, ít nhất, điều quan trọng là Mỹ phải nghiêm túc và trực tiếp can dự với Nga, khuyến khích Moscow cân nhắc những rủi ro của việc phụ thuộc quá nhiều vào nước láng giềng phía Đông.
* Nhà ngoại giao chuyên nghiệp, từng có 3 nhiệm kỳ tại Nga, trong đó có 2 nhiệm kỳ Đại sứ (2009-2012 và 2016-2020), Phó Đại sứ tại Washington D.C, Mỹ; cố vấn về đối ngoại của Thủ tướng từ năm 1993-1995.