Tác giả Lưu Đình Long cho rằng, trong giáo dục, lương tâm của nhà giáo quan trọng hơn tất cả bởi chẳng phải tự nhiên xã hội xem nghề giáo là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý. (Ảnh: NVCC) |
Tôi có nhiều bạn bè làm nghề giáo. Vì vậy, thi thoảng, tôi lại được nghe những tâm sự “phía sau bục giảng” của họ. Và tôi “ngộ” ra, hóa ra, làm thầy cô giáo đâu có sướng như mình nghĩ!
Hồi xưa, tôi có ý định sẽ trở thành giáo viên. Bằng chứng là tôi từng thi vào Đại học Sư phạm Đà Nẵng. Nhưng rồi, “nghề không chọn mình”, tôi quyết định theo ngành báo chí. Nhưng, có lúc tôi nghĩ, làm báo một thời gian, nếu có duyên mình cũng sẽ đi dạy.
Tôi hay hỏi Lê Văn Hiến, bạn tôi, đang dạy ở Trường THPT Trần Văn Giàu (Q.Bình Thạnh, TP.HCM) rằng, làm thầy tụi nhỏ thích không, chắc oai lắm? Hiến cười bảo, cũng vui mà cũng mệt, bao nhiêu thứ phải lo lắng, nhất là làm thầy trong thời buổi này, “trên đe dưới búa”.
Trước ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11) một tuần, Hiến kể về chuyện phong bì phụ huynh tặng cho thầy cô giáo dịp này. “Với người khác sao không biết, nhưng mình thấy việc trao phong bao, xem như quà tặng thầy cô nhân ngày Nhà giáo, thật sự kỳ kỳ”, Hiến nói và kể rằng đã có lần được đại diện hội phụ huynh của lớp nhét phong bì, gọi là quà cho thầy ngay giữa sân trường.
Sau đó, Hiến họp lớp và tuyên bố mình không nhận quà trong ngày “Tết thầy cô”. Với người thầy, việc dạy trên lớp và nhận lương tháng thật sự là khoản thu nhập không cao. Nhất là trong bối cảnh vật giá leo thang, mọi thứ đắt đỏ theo năm tháng, lương chỉ tăng theo kỳ hạn, người có trình độ Đại học phải 3 năm công tác mới lên lương một lần.
Có nhiều thầy cô giáo ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện còn khó hơn. Tất nhiên, việc chọn về nơi xa công tác đã là sự dấn thân, phải có tình yêu nghề mới làm được. Nhiều lần báo chí đăng tải thông tin, thầy cô vùng cao được thưởng Tết một ký hạt dưa. Nghe mà thương, vì đó là những người sẽ đào tạo ra những thế hệ trẻ gánh vác đất nước mai sau, mà chính họ còn chật vật, không gánh nỗi gia đình nhỏ của mình.
Bạn tôi, dạy học ở một trường Đại học cũng ngậm ngùi không kém, lương Thạc sĩ tầm 6 triệu đồng/tháng, Tiến sĩ khoảng 8 triệu đồng/tháng. Nghe chua chát, nếu so với lương công nhân hoặc những người đi chăm trẻ, bảo vệ… có khi cũng tương đương.
Có lẽ vì thế mà, có nhiều người “cạn nghĩ” đã chọn hướng, “học chi cho lắm, xong phổ thông đi làm công nhân cho đỡ tốn tiền”. Thực trạng về cử nhân, trên đại học thất nghiệp đã từng có báo cáo với con số 200.000 người. Vậy là, với những người có việc làm, dù lương thấp vẫn mừng rồi. Đi xe công nghệ, đôi khi trò chuyện với tài xế mới nhận ra, trong số đó có những cử nhân, họ ra trường rồi nhưng không có việc, chẳng thể về quê (vì ngại xóm làng dị nghị) nên cứ phải bám trụ ở thành phố với nghề đó, chờ cơ hội.
Việc này có liên quan tới tuyển sinh của các trường Đại học, trong cơ chế cạnh tranh, tự thu tự chi nên đã “giành giật” người học, hạ chuẩn đầu vào. Từ đó, tạo ra một thế hệ cử nhân thất nghiệp. Để xảy ra tình trạng này, lỗi do đâu?
Không xét yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội, câu chuyện tuyển đại người vào học để thu tiền, còn đầu ra không quan tâm, liệu có lương tâm? Người thầy trong môi trường đào tạo ấy có thấy áy náy với bao niềm hi vọng bên dưới giảng đường?
Trong thời buổi cạnh tranh để phát triển, sự “phát triển” sẽ khó bền nếu không xây trên nền móng vững chắc là tính nhân văn. Trong câu chuyện tuyển sinh, đào tạo của các trường Đại học ngày nay, dường như người ta chỉ chú ý đến lương tháng của người thầy.
Tác giả Lưu Đình Long giao lưu cùng bạn đọc. (Ảnh: Huy Sơn) |
Trong giáo dục, lương tâm quan trọng hơn là mấu chốt để được là… thầy, để học sinh, phụ huynh còn kính trọng. Chẳng phải tự nhiên xã hội xem nghề giáo là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong những nghề sáng tạo. Bởi chính yếu tố làm nghề với lương tâm trong sạch, lấy đạo đức làm đầu của người thầy, của những người trong môi trường giáo dục. Một khi người thầy có thể vì lý do lương tháng mà đánh mất lương tâm, sẽ tạo ra khoảng trống mất niềm tin trong xã hội. Điều đó đồng nghĩa với sụp đổ “lâu đài giáo dục”, bởi mối quan hệ thầy trò không còn xác lập ở sự kính trọng nữa.
Hiến, bạn tôi ái ngại với món quà phong bao cũng vì lẽ đó. Học sinh sẽ nghĩ gì nếu biết cha mẹ mình đã hùn tiền để “gửi quà” cho thầy? Người thầy nhận “quà” kiểu đó có quen tay? Và rồi sự vô tư trong giảng dạy có còn khi họ đặt chân lên bục giảng?
Tiền bạc, nói chung, ai cũng cần nhưng không phải lúc nào nó cũng trở nên giá trị khi được đặt lên hàng đầu. Trong giáo dục, nếu trường học hay người thầy bị tiền bạc chi phối, chắc chắn sẽ giảm đi ít nhiều lương tâm trong khi tuyển sinh, lên lớp.
Giữa những ngày vui của thầy cô, chúng ta cảm thông, chia sẻ với sự tận hiến của các thầy cô dấn thân, của những người chọn nghề giáo phục vụ. Nhưng việc tri ân người thầy như thế nào là một vấn đề không chỉ ở chỗ thái độ của thầy, còn nằm nơi cái nhìn của phụ huynh về công việc mà họ làm.
Sâu xa hơn, chính là vấn đề xây dựng cơ chế, chính sách từ việc tuyển sinh đại học đến chăm lo đời sống người thầy. Làm sao để nghề giáo thực sự cao quý ở chính đồng lương tương xứng với công sức người thầy đã bỏ ra, để không ai lăn tăn chuyện tiền bạc. Khi đó, danh hiệu “cao quý” mới đầy đủ ý nghĩa bởi sự coi trọng!