Có thể nói, Paul Krugman là một trong những nhà kinh tế học hiếm hoi có sức hút đến như vậy đối với công chúng. Có lẽ chính những bài báo thường xuyên và có giá trị của ông về những gì đang xảy ra đối với kinh tế thế giới, những dự báo sớm nhất về khủng hoảng tài chính châu Á 1997 cũng như cuộc khủng hoảng của thế giới hiện nay, cũng như phong thái thận trọng, cách tư duy rành mạch, đi vào thẳng vấn đề, tác phong nhanh nhẹn và đặc biệt hơn hết là một bộ não trí tuệ đến kỳ lạ đã khiến ông trở nên cuốn hút tới ngần ấy. Và nếu ai đó nghĩ rằng đó hẳn là một con người lạnh lùng và nguyên tắc như những hàm toán kinh tế học thì có lẽ họ cần phải nghĩ lại. Trong buổi trao đổi với các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách cấp cao Việt Nam, khi mà tất cả mọi người đang lắng nghe ông trả lời câu hỏi thì bỗng dưng toàn bộ microphone có vấn đề, sau một hồi loay hoay tìm cách khắc phục mà không được, giao sư nhún vai hài hước: "Did I say something wrong?". Đó quả thật là “great minds always have good taste of humor!”
Paul Krugman sinh năm 1953, tốt nghiệp đại học Yale năm 1974 và hoàn thành luận án Tiến sĩ về tài chính quốc tế tại Đại học MIT danh tiếng (Học viện Công nghệ Massachusetts) ở tuổi 24. Ông là tác giả của 20 cuốn sách và hơn 200 bài báo chuyên ngành. Paul Krugman nhận giải Nobel Kinh tế do Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển trao tặng vào ngày 13/10/2008 vì “sự phân tích của ông về các hình mẫu thương mại và vị trí của hoạt động kinh tế”. Cụ thể hơn, giải thưởng được trao cho những đóng góp của Paul Krugman trong hai lĩnh vực thương mại quốc tế và địa lý kinh tế.
Cha đẻ của lý thuyết Thương mại mới
Trong ngành kinh tế học, Paul Krugman nổi tiếng hơn cả với tư cách người sáng lập chủ chốt của “lý thuyết thương mại mới” – lý thuyết chủ chốt về thương mại quốc tế hiện nay, cũng được coi là một cuộc cách mạng trong tư duy thương mại quốc tế.
Trong một thời gian dài, từ đầu thế kỷ 19 cho tới những năm 1970, lý thuyết thương mại quốc tế được xây dựng dựa trên ý tưởng của nhà kinh tế học người Anh David Ricardo về lợi thế so sánh. Theo Ricardo, các quốc gia sở dĩ trao đổi mua bán hàng hóa vì họ có những lợi thế so sánh khác nhau và thương mại quốc tế diễn ra trên cơ sở sự khác biệt về lợi thế so sánh này.
Sang thế kỷ 20, vào những năm 1920 – 1930, lý thuyết của Ricardo được hai nhà kinh tế học người Thụy Điển Eli Heckscher và Bertil Ohlin mở rộng và mô hình hóa.
Mô hình Heckscher-Ohlin cho rằng thương mại quốc tế diễn ra trên cơ sở điều kiện khác biệt giữa các quốc gia về nhân tố sản xuất: Một số nước dư thừa lao động nhưng lại thiếu vốn, trong khi một số nước khác lại nhiều vốn nhưng thiếu lao động. Kết quả là các quốc gia sẽ chuyên môn hóa vào sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà nước đó có lợi thế tương đối và nhập khẩu những mặt hàng kém lợi thế.
Chẳng hạn, Việt Nam có nhiều lao động nhưng thiếu vốn và công nghệ nên có lợi thế tương đối trong sản xuất các mặt hàng cần nhiều lao động như quần áo, giày dép, nông sản, trong khi Mỹ có lợi thế tương đối trong sản xuất các mặt hàng công nghệ cao và cần nhiều vốn như máy tính, Ipod, phim Hollywood… Và quan hệ thương mại diễn ra trên cơ sở này, Việt Nam xuất khẩu quần áo, giầy dép, nông sản sang Mỹ và nhập khẩu máy tính, Ipod, phim Hollywood… từ Mỹ.
Mô hình Heckscher-Ohlin ngự trị tư duy kinh tế quốc tế trong suốt nửa thế kỷ và được sử dụng để giải thích hầu hết các mối quan hệ thương mại quốc tế. Thế nhưng càng ngày, người ta càng thấy có những đặc điểm trong thương mại quốc tế mà mô hình này không thể giải thích.
Một trong những đặc điểm đó là quan hệ thương mại nội ngành (intra-industry trade). Ví dụ, Mỹ xuất khẩu xe hơi sang Nhật và châu Âu nhưng cũng nhập khẩu xe hơi từ Nhật và châu Âu. Theo lý thuyết lợi thế so sánh thì trao đổi thương mại trong ngành này không thể xảy ra vì với một mặt hàng, chỉ có một chiều thương mại từ nơi có lợi thế sang nơi không có lợi thế sản xuất mặt hàng đó, như nước chỉ chảy từ chỗ cao xuống chỗ thấp, mà thôi. Nhưng thực tế lại không diễn ra như vậy.
Lý thuyết lợi thế so sánh cũng không giải thích được tại sao một số nền kinh tế như Đài Loan và Hàn Quốc lại thành công trong việc chuyển từ xuất khẩu quần áo, giày dép vào những năm 1960 sang xuất khẩu máy tính, ôtô đến Mỹ và châu Âu như ngày nay. Việc này gây nhiều bối rối cho các nhà kinh tế học và đã có một số mô hình mới ra đời nhằm giải thích cho quan hệ thương mại này.
Năm 1976, trong một lần dự tiết giảng của Robert Solow, một nhà kinh tế từng được giải Nobel, Paul Krugman được biết tới khái niệm cạnh tranh độc quyền – là sự cạnh tranh xảy ra khi những nhà sản xuất có được vị thế độc quyền với những nhãn hiệu hay sản phẩm nhất định.
Ý tưởng vận dụng khái niệm cạnh tranh độc quyền trong thương mại quốc tế chợt nảy ra trong đầu Paul Krugman. Sau này ông kể lại: “Chỉ trong vài giờ sau đấy, tôi biết ngay tôi đã có chìa khóa để cầm trong tay cả sự nghiệp của mình. Tôi còn nhớ rõ tôi thức cả đêm trong phấn khích”.
Thế nhưng ý tưởng của ông không dễ dàng được chấp nhận, bài viết của ông bị nhiều tạp chí chuyên ngành có uy tín từ chối và vấp phải sự thờ ơ của đồng nghiệp. Mãi tới năm 1979, Krugman mới có thể đăng bài viết của mình trên Tạp chí Kinh tế Quốc tế. Bài viết ngắn, chỉ 10 trang nhưng ngay lập tức gây được sự chú ý đặc biệt trong ngành và Paul Krugman trở thành cha đẻ trường phái “Lý thuyết thương mại mới” khi mới 26 tuổi.
Trong bài báo này, Krugman đưa ra một lý thuyết hoàn toàn mới về thương mại quốc tế. Lý thuyết này giải thích quan hệ thương mại nội ngành dựa trên giả định về lợi thế nhờ quy mô, theo đó việc sản xuất trên quy mô lớn làm giảm chi phí sản xuất. Bên cạnh lợi thế quy mô sản xuất, lý thuyết Krugman còn dựa trên giả định người tiêu dùng quan tâm tới tính đa dạng sản phẩm.
Do hai đặc tính này – lợi thế quy mô của nhà sản xuất và sự ưa thích đa dạng nhãn hiệu của người tiêu dùng – mà người sản xuất sẽ dần dần trở thành độc quyền đối với nhãn hiệu sản phẩm của mình, kể cả khi phải chịu sự cạnh tranh giữa các nhãn hiệu khác.
Mô hình của Paul Krugman giải thích tại sao thương mại quốc tế vẫn có thể diễn ra giữa những nước có lợi thế tương đối về công nghệ và nhân tố sản xuất tương tự nhau. Ví dụ Mỹ và châu Âu cùng có lợi thế tương đối về vốn và công nghệ nhưng Mỹ vẫn xuất khẩu xe Ford và nhập xe BMW từ châu Âu.
Sở dĩ điều này xảy ra vì sự ưa thích tính đa dạng nhãn hiệu của người tiêu dùng cho phép cả hai hãng Ford và BMW có lợi thế tương đối trong sản xuất những nhãn hiệu của mình.
Bài viết 10 trang của Paul Krugman đã mở đường cho một hướng nghiên cứu mới về kinh tế thương mại quốc tế. Cho tới ngày nay, lý thuyết Thương mại mới của Paul Krugman (cùng với sự đóng góp lớn của Bhagwati, Dixit, Helpman, Norman…) đã trở thành lý thuyết chính trong ngành thương mại quốc tế, bổ sung cho lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo và Heckscher-Ohlin. Những nghiên cứu về thương mại quốc tế hơn 30 năm qua hầu hết đều dựa trên những nền tảng của lý thuyết này.
Lý thuyết địa lý kinh tế mới: tập trung hay phân tán?
Bên cạnh việc là người khai sáng cho lý thuyết Thương mại mới, Paul Krugman còn là người tiên phong trong ngành địa lý kinh tế. Ông đề xuất lý thuyết sau này được gọi tên là “địa lý kinh tế mới”. Trong một bài báo trên Tạp chí Kinh tế Chính trị năm 1991, Krugman phát triển lý thuyết về sự lựa chọn địa điểm của lao động và hãng kinh doanh.
Theo Paul Krugman, các hãng có xu hướng xác định vị trí sản xuất của mình ở những nơi “trung tâm” đông đúc dân cư và vốn, vì tận dụng được lợi thế nhờ quy mô. Nhưng việc này sẽ dẫn tới dân cư – vừa là người cung cấp lao động vừa là người tiêu dùng – sẽ càng di chuyển tới những “trung tâm” này vì ở đó có tính lợi thế quy mô cao hơn, cũng có nghĩa là giá cả hàng hóa rẻ hơn và sản phẩm đa dạng hơn.
Điều này giải thích quá trình đô thị hóa và di cư ở trong lòng các quốc gia, từ những nơi thưa thớt dân cư tới những nơi đông dân hơn. Sự hạn chế tập trung hóa chính là ở chi phí vận chuyển.
Chi phí vận chuyển tới người tiêu dùng sẽ cao nếu như các hãng tập trung hóa ở một khu vực nhất định trong quốc gia. Do đó, quyết định lựa chọn địa điểm sản xuất của các hãng phụ thuộc vào tương quan giữa việc tận dụng lợi thế quy mô và việc tiết kiệm chi phí vận chuyển. Giảm chi phí vận chuyển sẽ dẫn tới quá trình tập trung hóa và đô thị hóa.
Theo mô hình này, sự giảm sút nhanh chóng chi phí vận chuyển nhờ các tiến bộ công nghệ trong thế kỷ 20 đã giải thích phần lớn cho quá trình đô thị hóa và sản xuất tập trung ở các nước trên thế giới.
Chim báo “bão tài chính”?
Những công trình trên hai mảng nghiên cứu thương mại quốc tế và địa lý kinh tế của Paul Krugman là cơ sở chính để ông nhận được giải Nobel Kinh tế. Nhưng các mối quan tâm của Paul Krugman không dừng lại ở đó. Trong chừng 10 năm gần đây, ông quan tâm nhiều tới các vấn đề kinh tế vĩ mô và kinh tế quốc tế như khủng hoảng tài chính, lạm phát – giảm phát…
Đặc biệt, vai trò của Paul Krugman còn được thể hiện như người dự đoán trước các cuộc khủng hoảng tài chính. Trước khủng hoảng tài chính châu Á, trong khi hầu hết các nhà kinh tế đều ca ngợi các “con rồng” châu Á như là những thành công kinh tế vững chắc thì Krugman là một trong những người đầu tiên nhận ra những điểm yếu của các nền kinh tế này – cụ thể là sự phát triển dựa chủ yếu vào vốn và lao động, thay vì vào năng suất.
Cuối thập niên 1990, ông có một loạt các bài viết về kinh tế Nhật Bản, giải thích sự suy thoái của kinh tế nước này bằng hiện tượng “cái bẫy thanh khoản” (liquidity trap), khiến cho chính sách tiền tệ nước này trở nên vô hiệu do lạm phát danh nghĩa quá thấp.
Gần đây, Krugman trở thành một trong những tác giả dự báo sớm nhất về khủng hoảng tài chính. Ngay từ tháng 3/2008 trong khi nhiều nhà kinh tế vẫn lạc quan và không tin rằng nước Mỹ sẽ rơi vào khủng hoảng tài chính thì Paul Krugman đã dự đoán cuộc khủng hoảng cầm cố dưới chuẩn ở Mỹ sẽ trở nên cực kỳ nghiêm trọng.
Trong mắt Krugman thì vị Cựu Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Mỹ Alan Greenspan là một trong hai người phải chịu trách nhiệm chính với việc xảy ra khủng hoảng (người kia là Thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa Phil Gramm). Từ năm 2005, Krugman đã bắt đầu lên tiếng chỉ trích sự lỏng lẻo trong cách Greenspan quản lý thị trường mua nhà cầm cố (mortgage) và để cho bong bóng bất động sản phình ra.
Nhà trí thức công chúng và "hot blogger"
Không chỉ là nhà kinh tế xuất sắc, Krugman còn có khả năng diễn giải những vấn đề phức tạp nhất một cách hết sức giản dị và chính xác. Chỉ bằng những câu rất ngắn gọn, vài hình minh họa hay vài công thức, ông có thể chỉ ra những nguyên nhân then chốt nhất dẫn tới khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, suy thoái kinh tế Nhật Bản thập niên 1990 hay khủng hoảng tài chính thế giới.
Bên cạnh các nghiên cứu khoa học chuyên sâu, Paul Krugman còn là tác giả của nhiều cuốn giáo trình và sách phổ thông về kinh tế cho những độc giả bình thường. Giáo trình Kinh tế Quốc tế của Paul Krugman là một trong những giáo trình phổ biến nhất đối với sinh viên bậc đại học.
Là một nhà khoa học xuất sắc nhưng Paul Krugman cũng là một trí thức công chúng (public intellectual) có sức ảnh hưởng rộng rãi. Năm 2005, tạp chí Prospect đã bình chọn 100 gương mặt trí thức công chúng hàng đầu trên thế giới – những người có sức ảnh hưởng lớn nhất trong công chúng.
Nhà kinh tế Paul Krugman được lựa chọn ở vị trí thứ sáu, cũng là vị trí cao nhất của một nhà kinh tế ở trong danh sách. Theo chương trình Các tài liệu nghiên cứu Kinh tế (Research Papers in Economics- RPE), Paul Krugman được đánh giá nằm trong số 50 nhà kinh tế có ảnh hưởng nhất thế giới hiện nay.
Ngoài công việc giảng dạy tại đại học Princeton, Paul Krugman còn là người viết chuyên mục (columnist) về kinh tế và chính trị trên tờ báo New York Times và là một blogger nổi tiếng. Blog của ông là một trong những blog viết về kinh tế – chính trị có nhiều độc giả nhất. Trên blog, Paul Krugman từng phê phán nặng nề chính sách của Tổng thống Bush nói riêng và của đảng Cộng hòa nói chung, coi đó là điển hình của sự ngu dốt và tư lợi, gây ra những hậu quả nặng nề cho xã hội Mỹ.
Tính trung thực trí thức của ông còn được thể hiện trong thái độ của ông với các chính sách của Tổng thống Obama. Mặc dù ủng hộ đảng Dân chủ nhưng Krugman cũng không ngần ngại chỉ trích cách thức tiến hành cứu hộ hệ thống ngân hàng của nội các Obama – ông coi chúng là thiếu hiệu quả và dễ bị giới ngân hàng lợi dụng.
Thay cho lời kết, nếu có ai đó có sự quan tâm sâu sắc tới những phản biện về sự phát triển của nền kinh tế thế giới cũng như chia sẻ những lý thuyết kinh tế mới và mong nhận được những phản hồi sắc sảo, không ngại va chạm thì có lẽ không nơi nào tốt hơn blog của Giáo sư Paul Krugman http://krugman.blogs.nytimes.com/ và http://www.pkarchive.org/ .
Quang Sáng
(tổng hợp)