Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh gặp gỡ các nhà báo. |
Ngoại giao nỗ lực kiến tạo hòa bình
Nói về những đóng góp của ngành Ngoại giao vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong 70 năm qua, Phó Thủ tướng cho biết, ngay từ những ngày đầu sau khi thành lập nước, trong những văn bản đầu tiên, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa ra 4 trọng tâm kiến thiết: Ngoại giao, Kinh tế, Quân sự và Giáo dục. Trong đó, Ngoại giao là một nhân tố quan trọng góp phần tạo môi trường hòa bình cho đất nước.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của Việt Nam, chúng ta đã thương lượng và đi tới ký kết Hiêp định Sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước Việt – Pháp 14/9/1946 trong thời điểm “ngàn cân treo sợi tóc”, tạo khoảng thời gian hòa bình cần thiết để chuẩn bị lực lượng, năng lực cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Những nỗ lực kiến tạo hòa bình, phục vụ công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước của ngành ngoại giao tiếp tục thể hiện trong những lần đàm phán Hiệp định Genena năm 1954 và Hiệp định Paris năm 1973.
Trong 30 năm qua kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, ngoại giao cũng đã góp phần mở rộng quan hệ giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi bên ngoài cũng như tìm nguồn lực bên ngoài đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước thông qua vận động đầu tư, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu…
Vị thế được công nhận
Phó Thủ tướng nhấn mạnh, sau 70 năm, có thể khẳng định, vị thế của Việt Nam tại khu vực và trên trường quốc tế chưa bao giờ “cao như thế”. Đây là điều được các nước trong khu vực và trên thế giới ghi nhận, là kết quả của quá trình phát triển kinh tế và hoàn thành tốt những cam kết quốc tế. Đơn cử, chúng ta đã hoàn thành các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) mặc dù với trình độ phát triển chưa cao. Chúng ta cũng từng bước tham gia và có những đóng góp cụ thể vào công việc chung của thế giới, tham gia giải quyết những vấn đề không chỉ liên quan đến chúng ta. Việt Nam đã có nhiều sáng kiến cụ thể khi là thành viên của Hội đồng Bảo an, Hội đồng Nhân quyền, Ủy ban Kinh tế - Xã hội của Liên hợp quốc. Ở khu vực, với tư cách thành viên ASEAN, Việt Nam cũng đã có nhiều đóng góp từ việc xây dựng Hiến chương ASEAN đến thực hiện các mục tiêu cam kết trong ASEAN để hướng tới hình thành Cộng đồng ASEAN vào cuối năm 2015.
“Có thể thấy những nước nào có tiềm lực kinh tế, tài chính, quân sự mạnh thì mới có vai trò, vị thế, tiếng nói lớn trong diễn đàn lớn. Còn những nước tiềm lực kinh tế không mạnh, dân số không nhiều, kinh tế có thể phát triển mà vẫn có tiếng nói thì đó là vì họ có những đóng góp cụ thể, được các nước ghi nhận. Đó là trường hợp của Việt nam. Và, những đóng góp của chúng ta trong quá trình hội nhập thế giới và khu vực đã giúp Việt Nam tạo dựng được vị thế của mình. Việc Việt Nam thiết lập được quan hệ với các nước, trong đó có những nước quan trọng, cũng tạo nên vị thế của đất nước”, Phó Thủ tướng nói.
Những tiền đề quan trọng
Ngoại giao trong mỗi thời kỳ đều có những thuận lợi, khó khăn nhất định. Tuy nhiên, Phó Thủ tướng khẳng định, với ngành Ngoại giao Việt Nam, khó khăn, thách thức lớn nhất chính là khoảng thời gian Việt Nam bị bao vây, cấm vận. Các thế lực thù địch từ nhiều phía đã hết sức chống phá Việt Nam trên tất cả lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế đến an ninh, dân chủ, nhân quyền. Trên trường quốc tế, Việt Nam bị cô lập. “Đó là lúc tiếng nói của Việt Nam trên trường quốc tế không được lắng nghe. Tuy nhiên, ta đã vượt qua được”, Phó Thủ tướng nói.
Và, Ngoại giao đã thể hiện và phát huy được vai trò của mình trong thời kỳ này. Theo Phó Thủ tướng, thời điểm sau khi đất nước thống nhất năm 1975, chúng ta phải tiếp tục bảo vệ biên giới lãnh thổ với các cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía bắc. Lúc đó Việt Nam chỉ mới thiết lập quan hệ với một số nước châu Âu, chủ yếu là các nước XHCN. Quan hệ không được mở rộng, các cuộc tiếp xúc, thăm viếng nhau cũng hạn chế. Từ đó, quan hệ kinh tế - thương mại cũng không thuận. Trong khi đó, Việt Nam lại đang rất cần nguồn lực để xây dựng, kiến thiết đất nước sau chến tranh. Chúng ta chỉ có nguồn lực của XHCN hỗ trợ nhưng cũng ít đi dần đi. Cần có nguồn ngoại tệ mạnh để phát triển khoa học kỹ thuật, phát triển đất nước, nhưng do bao vây cấm vận ta không tiếp cận được.
Mục tiêu của ngoại giao lúc đó là phá vỡ bao vây cấm vận để không những duy trì hòa bình mà còn tạo nguồn lực để phát triển. Và đó là lúc Nghị quyết 13 ra đời với sự đổi mới về tư duy đối ngoại thay đổi. Việt Nam chủ trương tăng bạn bớt thù, chuyển từ đối đầu sang hợp tác để phát triển. Các quyết sách lúc đó để phá vỡ thế bao vây cấm vận là giải quyết vấn đề Campuchia, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, cải thiện quan hệ với các nước ASEAN, các nước phương Tây trong đó có Mỹ. Kết quả, năm 1991 đã mở ra thời kỳ mới: Việt Nam giải quyết được vấn đề Campuchia, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, cải thiện tiến tới gia nhập ASEAN vào năm 1995, một điều không tưởng lúc đó vì còn sự nghi kỵ rất lớn của các nước Đông Nam Á, và sau đó là bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Đó là những tiền đề quan trọng để chúng ta đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ ngoại giao sau này. Bởi vậy, theo Phó Thủ tướng, tinh thần của Nghị quyết 13 về đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ ngoại giao hiện nay vẫn còn nguyên giá trị.
Thách thức không nhỏ
Phó Thủ tướng cho biết đến nay, quan hệ ngoại giao của Việt Nam đã mở rộng với hầu hết các nước trên thế giới (185/193 nước). Không chỉ mở rộng mà các mối quan hệ đã đi vào giai đoạn hình thành các khuôn khổ hợp tác quan trọng như đối tác toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác hợp tác. Hiếm có nước nào xây dựng được khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với tất cả các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Trong khu vực, Việt Nam đã lập quan hệ đối tác chiến lược với các nước Đông Nam Á.
Tuy nhiên, hiện thách thức với ngành Ngoại giao là không hề nhỏ khi tình hình thế giới biến động phức tạp, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn – nhất là ở Đông Nam Á, Châu Á – Thái Bình Dương - ngày càng gay gắt, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách đối ngoại phù hợp, đảm bảo phát triển quan hệ với các nước trên cơ sở đảm bảo lợi ích mà vẫn giữ được quan hệ.
Trong thời gian tới, theo Phó Thủ tướng, Việt Nam sẽ tiếp tục những chủ trương đối ngoại là đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu, hiệu quả. Mục đích là xây dựng các mối quan hệ ổn định bền vững. Đó chính là những nền tảng cho quan hệ với các nước khác. Ngoài ra, chủ trương, tích cực hội nhập có nghĩa là ngoại giao phải đi đầu. Hội nhập ở đây không chỉ tham gia mà còn cùng các nước định hướng, xây dựng những luật chơi để đảm bảo lợi ích tốt nhất.
***
Phó Thủ tướng cho rằng, ngành Ngoại giao may mắn có Chủ tịch Hồ Chí Minh là Bộ trưởng đầu tiên. Ngành cũng luôn luôn thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh và luôn phát triển ngoại giao tâm công, linh hoạt, dĩ bất biến, ứng vạn biến. “Hồ Chủ tịch có một câu nói mà ngành Ngoại giao rất tâm đắc: Biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng, biết tiến”, Phó Thủ tướng nói.
Phó Thủ tướng cũng nói về những bài học ngoại giao trong đấu tranh giải phóng dân tộc có thể áp dụng cho cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền đất nước hiện nay. Đó là: Bài học về đường lối độc lập, tự chủ để bảo đảm giữ quan hệ với các nước và giải quyết những vấn đề liên quan. Thứ hai, đặt lợi ích dân tộc cao nhất trên phương châm dĩ bất biến ứng vạn biến, trong đó yếu tố bất biến là lợi ích dân tộc. Thứ ba là bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, một bài học xuyên suốt từ khi thành lập nước đến nay, làm sao vận động được quốc tế ủng hộ lập trương chính nghĩa, sự hòa hiếu, mong muốn hòa bình, ổn định của chúng ta. Ngoài ra, đó còn là bài học về sự phối hợp tốt giữa các bộ, ngành, nhất là giữa ngoại giao-quốc phòng-an ninh.
Theo Phó Thủ tướng, trong thời gian tới, để đẩy mạnh hội nhập toàn diện, ngoại giao sẽ là những người đi đầu, đề xuất chủ trương hội nhập trong lĩnh vực gì, trên cơ sở nào; cùng tất cả các bộ, ngành, địa phương tham gia vào quá trình hội nhập đó và phải đào tạo, xây dựng được nguồn nhân lực phục vụ tiến trình hội nhập đó.
Tại cuộc gặp, Phó Thủ tướng cũng đã chia sẻ về những đóng góp của ngành Ngoại giao trong việc xây dựng Cộng đồng ASEAN, những thuận lợi và thách thức của việc đàm phán các Hiệp định Thương mại tự do, việc xây dựng nguồn nhân lực bảo đảm cho thời kỳ đẩy mạnh hội nhập toàn diện….
Nguyễn Kim