Toàn cảnh Hội thảo. (Nguồn: VBA) |
Chiều 25/11, Hiệp hội Bia-Rượu-Nước giải khát Việt Nam (VBA) phối hợp với Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương tổ chức Hội thảo Công bố “Báo cáo đánh giá tác động của dự thảo tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng bia”.
Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) (sửa đổi) đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025, bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2024) và thông qua tại Kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2025).
Trong đó, Luật sửa đổi theo hướng điều chỉnh tăng thuế suất thuế TTĐB đối với mặt hàng bia (mức thuế hiện nay là 65%) với 2 phương án được đề xuất. Phương án 1 sẽ tăng thuế từ năm 2026, tăng theo từng năm và mỗi năm tăng 5% để tới năm 2030 thuế suất thuế TTĐB đối với bia là 90%. Phương án 2 sẽ tăng thuế từ năm 2026 với mức tăng 15%, sau đó từ năm 2027 tăng từng năm và mỗi năm tăng 5% để tới năm 2030 thuế suất thuế TTĐB đối với bia là 100%.
Tại Văn bản số 28/VB-VBA ngày 1/7/2024 của VBA gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính về góp ý dự thảo Luật thuế TTĐB (sửa đổi), VBA đề xuất lùi thời hạn tăng thuế tới năm 2027; đồng thời tăng thuế ở mức 5% và với lộ trình tăng 2 năm một lần, đến mức 80% vào năm 2031, để phù hợp với bối cảnh kinh tế, thực trạng doanh nghiệp và để doanh nghiệp có khả năng trụ vững, thích ứng, qua đó giảm nhẹ ảnh hưởng tiêu cực tới ngành và đóng góp chung cho phát triển kinh tế xã hội.
Các phương án tăng thuế Bộ Tài chính đề xuất sẽ có tác động vô cùng lớn tới doanh nghiệp ngành bia. Trong bối cảnh đó, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương (Bộ Công Thương), Viện Nghiên cứu Đồ uống Việt Nam phối hợp với nhóm chuyên gia của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) và Tổng cục Thống kê thực hiện nghiên cứu đánh giá tác động của việc điều chỉnh tăng thuế TTĐB đối với ngành bia Việt Nam.
Nghiên cứu cho thấy, hiện cả nước có khoảng 6.600 doanh nghiệp đồ uống. Từ năm 2016 tới 2023, mỗi năm các doanh nghiệp này đóng góp khoảng 48 – 56 nghìn tỷ đồng vào ngân sách nhà nước; trong đó, ngành bia đóng góp khoảng 70%. Do đó, ngành bia có, vị trí, vai trò rất lớn trong việc tạo nguồn thu cho ngân sách thông qua các khoản thuế trực tiếp từ sản xuất bia và các khoản khác qua những hoạt động liên quan như dịch vụ phân phối bán lẻ, bao gồm cả dịch vụ xuất nhập khẩu.
Nghiên cứu cũng chỉ ra bình quân giai đoạn 2018-2022, ngành đồ uống đã tạo gần 87 nghìn việc làm trực tiếp và hàng triệu cơ hội việc làm gián tiếp thông qua hơn 5 triệu hộ kinh doanh dịch vụ nhà hàng, ăn uống.Trong đó, ngành bia đóng góp hơn 50% lực lượng lao động ngành đồ uống. Theo đó, thu nhập của người lao động trong ngành sản xuất bia cao hơn thu nhập trung bình của người lao động trong ngành sản xuất đồ uống và cao hơn đáng kể thu nhập trung bình ngành công nghiệp chế biến chế tạo.
Bà Nguyễn Thị Minh Thảo, Trưởng ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương – CIEM) cho biết, nhóm nghiên cứu đã thực hiện với 3 phương án gồm phương án 1, phương án 2 của Bộ Tài Chính và phương án VBA đề xuất. Cả 3 phương án đều ảnh hưởng, làm suy giảm giá trị tăng thêm của ngành bia.
Giả định, mức tăng trưởng giá trị tăng thêm ngành bia tương đương với mức tăng trưởng GDP theo kịch bản 6,5%, với phương án 1, giá trị tăng thêm giảm 44.359 tỷ đồng, tương đương 9,4%; phương án 2 giảm 61.899 tỷ đồng, tương đương 13,12% và phương án 3 là giảm 38.329 tỷ đồng, tương đương 6,5%.
Bà Nguyễn Thị Minh Thảo, Trưởng ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh (CIEM) phát biểu tại sự kiện. (Nguồn: VBA) |
Theo bà Nguyễn Thị Minh Thảo, chu kỳ sản xuất của ngành bia là chu kỳ ngắn hạn, ở các chu kỳ sản xuất trung và dài hạn, sản xuất của ngành bia và 21 ngành trong quan hệ liên ngành bị thu hẹp, dẫn tới nguồn thu NSNN giảm. Vì thế, mục tiêu tăng thuế TTĐB đối với mặt hàng bia để tăng NSNN sẽ không đạt được về trung và dài hạn.
Đặc biệt, người lao động cũng chịu ảnh hưởng đáng kể khi tăng thuế TTĐB đối với bia. Cả 3 phương án đều làm giảm thu nhập của người lao động trong nền kinh tế. Vì vậy, trên cơ sở căn cứ vào tổng quan, thực trạng chung của doanh nghiệp, ngành bia là ngành dễ bị ảnh hưởng nhất trước những thay đổi về chính sách.
Chia sẻ tại Hội thảo, ông Phạm Tuấn Khải, nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp luật, Văn phòng Chính phủ, cho biết trong gần 30 năm làm công tác xây dựng pháp luật, xây dựng hàng trăm dự án luật nhưng ông chưa thấy một dự án nào được đánh giá tác động kỹ như nghiên cứu “Đánh giá tác động của dự thảo tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng bia” do nhóm nghiên cứu của 4 cơ quan thực hiện.
“Điểm nghẽn của việc xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay là pháp luật không dự báo được những vấn đề xảy ra trong tương lai. Cho nên, luật của chúng ta rất cụ thể, khó làm. Báo cáo này đã đánh giá toàn diện tác động của dự án luật; phân tích, phản biện xác đáng, thuyết phục; giúp cơ quan soạn thảo không chỉ nhìn thấy được bức tranh thực tiễn mà còn dự báo được tương lai của ngành”, ông Khải đánh giá.
Ông Khải cho rằng, Dự thảo Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) nói chung và với mặt hàng bia nói riêng không nên quy định chi tiết, cố định mức tăng thuế cụ thể ở một thời điểm. “Lộ trình tăng nên giao cho Chính phủ quyết định. Chính phủ thấy rằng thời gian này, địa chính trị như thế, bối cảnh kinh tễ vĩ mô khó khăn như thế thì có thể lùi thời điểm tăng lại hoặc đẩy tốc độ tăng thuế nhanh hơn. Không nhất thiết phải quy định về thời điểm tăng thuế quá chi tiết, cụ thể trong luật”, ông Khải đề xuất.
Nhìn nhận ở góc độ doanh nghiệp, bà Trần Ngọc Ánh, Giám đốc Ngoại vụ cấp cao của Heineken Việt Nam cho rằng, trong bối cảnh nền kinh tế đối mặt nhiều khó khăn, thách thức, nguyên liệu đầu vào của các ngành sản xuất bị tăng lên, tiêu dùng giảm… khiến doanh nghiệp đứng trước nhiều khó khăn. Do đó, việc sửa đổi thuế TTĐB cần phải được xem xét toàn diện,thấu đáo.
“Báo cáo của nhóm nghiên cứu đã tiếp cận khoa học, phương pháp đánh giá tiên tiến, có các số liệu tin cậy. Trong các phương án Bộ Tài chính đề xuất đều gây tác động tới nền kinh tế, phương án 2 tác động mạnh nhất. Vì vậy, cần có một phương án hài hòa để đạt được các mục tiêu ngân sách, bảo vệ sức khỏe, đảm bảo môi trường kinh doanh, phù hợp với bối cảnh kinh tế, thực trạng doanh nghiệp và để doanh nghiệp có khả năng trụ vững”, bà Trần Ngọc Ánh cho hay.