Trong một dự báo mới nhất, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tiếp tục hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2016 xuống còn 3,4% từ 3,6%, với lý do chính là sự sụt giảm tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là Trung Quốc.
Sản xuất công nghiệp của Trung Quốc bị co lại trong suốt năm 2015. |
Bình thường hay không bình thường
GDP năm 2015 của Trung Quốc là 6,9%, thấp hơn mức 7% mà Chính phủ nước này đề ra hồi đầu năm. Đây là mức tăng trưởng thấp nhất trong 25 năm qua, kể từ năm 1990, nhưng được coi là điều tất yếu. Từ nhiều năm trước, các chuyên gia đã cảnh báo mô hình tăng trưởng dựa trên xuất khẩu và đầu tư của nước này không bền vững, mà cần phải dựa trên tiêu thụ và dịch vụ nội địa. Để làm được điều đó, có nghĩa là phải chấp nhận GDP sẽ bị giảm trong trung hạn. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng đã kêu gọi người dân nước này chấp nhận tăng trưởng thấp như một điều bình thường mới, khi ông nhận ra rằng các động lực kinh tế đã yếu đi rất nhiều.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng giảm dần đều của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới mới là vấn đề các nhà nghiên cứu kinh tế nói đến. Từ mức 7,4% trong quý III/2014, tăng trưởng GDP đã giảm xuống còn 7,2% trong quý IV, rồi 7% trong quý I và II/2015 và quý cuối 2015 là 6,8%.
Có vẻ như kinh tế Trung Quốc đang chậm lại một cách khó kiểm soát. Năm 2015, hàng loạt các nỗ lực của Bắc Kinh nhằm đưa nền kinh tế tăng tốc trở lại như: sáu lần hạ lãi suất, bốn lần cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các Ngân hàng thương mại, phá giá đồng nhân dân tệ 4,4% chỉ trong ba ngày và phê duyệt đầu tư công trị giá hàng trăm tỷ USD… đều thất bại. Những biện pháp mạnh tay trên nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, tiêu thụ hàng tồn kho và ổn định sản xuất công nghiệp nhưng kết quả đều không như mong đợi.
Từ năm ngoái, các số liệu kinh tế Trung Quốc đã không cải thiện mà xấu đi theo từng quý. Trụ cột lớn nhất của kinh tế Trung Quốc 30 năm qua là xuất khẩu đã lao dốc từ mức tăng hai con số xuống mức âm; chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) giảm 10 tháng liên tục cho thấy sản xuất công nghiệp bị co lại trong suốt năm 2015; Công nghiệp đình đốn cũng đẩy hàng loạt nhà máy ở Quảng Đông - nơi tập trung các nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu, vào tình trạng phá sản, hàng vạn công nhân bị sa thải...
Đã có nhiều nguyên nhân được đưa ra, tất nhiên, có nguyên nhân sức tiêu thụ yếu trên thị trường thế giới do khủng hoảng kinh tế. Nhưng những vấn đề nội tại trong nền kinh tế, cộng thêm các tác dụng phụ của các biện pháp kích thích đã góp phần kích hoạt làn sóng rút vốn đầu tư và tâm lý hoảng loạn trên các thị trường tài chính.
Thế giới ắt “sổ mũi”
Kinh tế Trung Quốc “hắt hơi” thì thế giới sẽ “sổ mũi”, nhiều người tin là như vậy. Tuy chưa bị rơi vào giai đoạn trì trệ hoặc suy thoái, do đó, chưa đặt ra nguy cơ kéo thế giới vào khủng hoảng, song đà giảm tốc của Trung Quốc không phải không đáng ngại.
Trở lại giai đoạn Trung Quốc tăng trưởng chóng mặt, nước này trở thành thị trường tiêu thụ khổng lồ các mặt hàng chiến lược như dầu mỏ, than đá, khoáng sản, nông sản... và các loại linh kiện, bán thành phẩm. Nhu cầu của Trung Quốc mở ra những cơ hội lớn để các doanh nghiệp nhiều nước đẩy mạnh đầu tư khai thác khoáng sản, xây dựng cơ sở hạ tầng, sản xuất linh kiện...
Các nước Brazil, Chile ở Nam Mỹ, Australia, Ấn Độ, các nước châu Phi, Trung Đông... nhanh chóng phất lên nhờ xuất khẩu sang Trung Quốc quặng sắt, đồng, than đá, dầu mỏ, khí đốt, gỗ... và hàng trăm loại nguyên liệu khác. Nền kinh tế Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, Nhật Bản cũng nhanh chóng trở thành nguồn cung cấp linh kiện điện tử, xe hơi, vật liệu xây dựng, dịch vụ vận tải... cho các doanh nghiệp Trung Quốc thực hiện lắp ráp để xuất khẩu sang Mỹ, EU.
Nhu cầu của thị trường Trung Quốc, cộng với chi phí vốn rẻ do các ngân hàng trung ương các nước giảm lãi suất xuống mức tối thiểu để đối phó với khủng hoảng tài chính 2008, đã thúc đẩy các doanh nghiệp vay vốn, mở rộng sản xuất, khai thác với quy mô lớn chưa từng thấy.
Nhưng khi nền kinh tế Trung Quốc có dấu hiệu chững lại, cũng là lúc thị trường thế giới bắt đầu chao đảo, các loại hàng hóa đồng loạt rớt giá, giá dầu đã mất 60% trong 18 tháng, còn được dự báo sẽ xuống 20 USD/thùng, thậm chí 10 USD nếu nhu cầu từ Trung Quốc không trở lại. Trong năm 2015, giá các kim loại niken, đồng, quặng sắt… giảm hơn 25%; ngay cả cao su, lúa mì và ngô cũng xuống giá mạnh.
Theo tờ New York Times, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư nhiều tỉ USD vào các dự án như khai thác dầu cát ở Canada, quặng sắt ở Tây Phi... hiện giờ đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan. Nền kinh tế thịnh vượng nhờ dầu lửa như Saudi Arabia lần đầu tiên cạn kiệt ngân sách. Tình trạng sản xuất thừa, giá giảm, sa thải nhân viên được dự báo sẽ còn kéo dài trong nhiều năm sắp tới.
Ở Đông Nam Á, nhiều nền kinh tế phụ thuộc vào nhu cầu của Trung Quốc hiện cũng đang lo lắng. Theo nghiên cứu của Ngân hàng ANZ, nếu kinh tế Trung Quốc giảm 1 điểm phần trăm thì Singapore bị giảm theo 1,4 điểm vì Trung Quốc tiêu thụ tới 25% sản lượng xuất khẩu của đảo quốc này. Việt Nam và Malaysia ít bị ảnh hưởng hơn nhưng không phải không đáng lo.
Trong hai tuần đầu năm 2016, dư luận chú ý nhiều tới các vụ “sập sàn” chứng khoán Trung Quốc. Bỏ qua tính toán sai lầm của Bắc Kinh về quản lý thị trường, điều người ta nhắc đến nhiều là sự tác động của yếu tố tâm lý lên thị trường toàn cầu. Trong nền kinh tế thế giới không có gì chắc chắn như hiện nay, tác động sâu xa của sự giảm tốc kinh tế Trung Quốc nằm ở nền kinh tế “thực”, nó như ngòi nổ sẵn sàng bị kích thích bất cứ lúc nào.