Đó là đôi nét phác thảo về thị trường tài chính, tiền tệ Việt Nam của các nhà nghiên cứu kinh tế đầu ngành tại Hội thảo "Ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì đà tăng trưởng: Kinh tế VN năm 2010, triển vọng năm 2011", tại TP.HCM trong hai ngày 21 và 22/9, do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Viện Khoa học Xã hội VN và UNDP phối hợp tổ chức. Các ý kiến tại Hội thảo này sẽ được Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tập hợp làm tài liệu phục vụ kỳ họp Quốc hội tới.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, nhưng VN vẫn thuộc một số ít quốc gia đạt được những thành tích đáng kể về phục hồi và duy trì tăng trưởng. Tuy nhiên, thị trường tiền tệ - một trong những yếu tố quan trọng đối với ổn định kinh tế vĩ mô và tiếp tục duy trì tăng trưởng, lại có nhiều vấn đề cần phải "mổ xẻ".
"Hệ thống tài chính có biểu hiện thiếu lành mạnh, nợ xấu của một số định chế còn cao, chu chuyển tiền mang tính đầu cơ lớn và chưa đi nhiều vào sản xuất hàng hóa, dịch vụ." là lo lắng của một số chuyên gia hàng đầu về tài chính, tiền tệ VN. Biểu hiện rõ nét là nhiều tập đoàn kinh tế đã huy động vốn bằng phát hành trái phiếu doanh nghiệp với lãi suất quá cao, 14-16%/năm. Mức lãi suất này sẽ làm khó doanh nghiệp, bởi chỉ sơ sảy các khoản vay này dễ dàng trở thành nợ xấu.
Trong hệ thống tài chính, tiền tệ đã xuất hiện vòng xoáy, đồng VN (VND) cao giá dẫn tới thâm hụt thương mại, giảm sút dự trữ ngoại tệ, buộc phải điều chỉnh tỷ giá. Nếu tỷ giá không được điều chỉnh thích hợp, vòng xoáy lại tiếp tục theo hướng tiêu cực hơn. Do không có chính sách chủ động về tỷ giá, nên bị động đối phó, rủi ro sẽ tích tụ. TS. Võ Đại Lược - Chủ nhiệm Chương trình trọng điểm cấp quốc gia về kinh tế VN đến 2020, báo động.
Tình hình lạm phát cũng đang là vấn đề nóng, khiến mặt bằng lãi suất USD tại thị trường trong nước cao hơn quốc tế. Sự tất yếu đã và sẽ tiếp tục xảy ra là xuất hiện dòng vốn tìm kiếm lợi nhuận nhằm "ăn" phần chênh lệch lãi suất giữa thị trường VN và quốc tế. Số liệu của UB Giám sát tài chính Quốc gia đã chứng minh hiện có khoảng 2 tỷ USD vốn vay ủy thác đầu tư vào VN. "Nếu dòng vốn này ở lại VN lâu dài thì chưa có rủi ro. Nhưng, nếu những điều kiện kinh tế thay đổi làm cho dòng vốn này không tìm kiếm được lợi nhuận và sẽ rút ra, sẽ gây nên những tác động tiêu cực", TS. Lược đã khẳng định như vậy.
Con số 8,8 tỷ USD thâm hụt cán cân thanh toán năm 2009 và 2,84 tỷ USD 6 tháng đầu năm 2010 là không khả quan. Nhưng từ đầu năm đến nay, Ngân hàng Nhà nước vẫn phải 2 lần hạ giá VND (3,5% và 2,1%). Đây là động thái không mong muốn, nhưng phải làm. Nếu ổn định tỷ giá trong khi lạm phát ở VN cao hơn Mỹ, giá VND sẽ tăng, làm hạn chế xuất khẩu, khuyến khích nhập khẩu, gia tăng nhập siêu.
Việc định giá cao VND, theo TS. Lược, sẽ tác động tới thu hút đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu. Nó khiến các nhà xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến sẽ phải cân nhắc nhiều hơn trong việc tính toán lựa chọn địa điểm đầu tư giữa VN và các nước khác, dẫn tới VN sẽ chịu nhiều thiệt thòi trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu và sẽ tiếp tục là nước xuất khẩu tài nguyên, nếu không điều chỉnh tỷ giá. Tuy nhiên, hạ giá VND đặc biệt khó do sẽ làm tăng nghĩa vụ trả nợ gia tăng với các khoản vay bằng USD của nhiều ngân hàng thương mại, các tập đoàn…, vốn có “trọng lượng”.
Cuối cùng, vấn đề đặc biệt quan trọng là việc phối hợp chính sách, lại bị nhiều chuyên gia đánh giá là chưa chặt chẽ. Viện trưởng Viện Kinh tế VN - TS.Trần Đình Thiên còn dùng các cụm từ "không nhất quán", "xung đột"... để nói về các chính sách tiền tệ. Bằng chứng là nỗ lực hạ lãi suất không thể kéo lạm phát xuống như mong muốn. Bên cạnh đó, vẫn còn những chính sách gây khan hiếm vốn hơn là tăng thanh khoản để hỗ trợ giảm lãi suất.
Vì vậy, theo các chuyên gia, lời giải là phải lựa chọn chính sách phù hợp, đảm bảo không tăng bất ổn vĩ mô, nhưng không "bóp ngẹt" quá trình phục hồi của thị trường.
Bảo Châu