📞

Thủ tướng Phạm Văn Đồng với ngành ngoại giao

15:00 | 03/03/2016
Không những là một nhà lãnh đạo tài năng, uy tín, một nhà văn hoá lớn, ông còn là một nhà ngoại giao nổi tiếng, được bạn bè quốc tế trân trọng, nể phục. nhân dịp kỷ niệm 110 năm ngày sinh cố thủ tướng Phạm văn đồng (1/3/1906 - 1/3/2016), báo TG&VN xin được giới thiệu bài viết về ông.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng là một trong những học trò xuất sắc nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc đời hoạt động cách mạng của ông gắn liền với những trang sử vẻ vang của Đảng và dân tộc, là tấm gương mẫu mực về tinh thần yêu nước, suốt đời tận tụy phục vụ cách mạng, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Người học trò xuất sắc của Bác Hồ

Tham gia hoạt động cách mạng từ sớm, được sự dìu dắt của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, năm 1926, ông sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện cách mạng do Nguyễn Ái Quốc tổ chức và gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Đến năm 1929, ông được cử vào Kỳ bộ Nam Kỳ, rồi vào Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội và tham gia đại hội của tổ chức này họp ở Hongkong. Tháng 7/1929, ông bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù, đày đi Côn Đảo. Năm 1936, ông ra tù, hoạt động ở Hà Nội. Năm 1940, ông bí mật sang Trung Quốc cùng với Võ Nguyên Giáp, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và được Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ về nước xây dựng căn cứ địa ở biên giới Việt – Trung. Năm 1945, tại Đại hội Quốc dân Tân Trào, ông được bầu vào Ủy ban Thường trực gồm năm người thuộc Ủy ban Dân tộc Giải phóng, chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám.

Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, ông giữ nhiều trọng trách của Đảng và Nhà nước ta như Phó Trưởng ban Thường vụ Quốc hội (khóa I), Trưởng phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Fontainebleau (Pháp), Đặc phái viên của Trung ương Đảng và Chính phủ tại Nam Trung bộ. Từ tháng 7/1949, ông được cử làm Phó Thủ tướng. Tại Đại hội Đảng lần thứ hai năm 1951, ông trở thành Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng.

Năm 1954, ông được giao nhiệm vụ Trưởng phái đoàn Chính phủ dự Hội nghị Geneva về Đông Dương. Tháng 9/1954, ông kiêm chức Bộ trưởng Ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng. Từ tháng 9/1955, ông là Thủ tướng Chính phủ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và từ năm 1976 là Thủ tướng của nước Việt Nam thống nhất, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng cho đến khi về hưu năm 1987. Ông cũng liên tục là đại biểu Quốc hội từ năm 1946 đến năm 1987.

Với trọng trách 32 năm làm Thủ tướng Chính phủ (từ năm 1955 đến năm 1987), Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có những đóng góp hết sức to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thống nhất cho đến khi qua đời năm 2000, xứng đáng là người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nhà ngoại giao nổi tiếng

Thủ tướng Phạm Văn Đồng còn là nhà ngoại giao nổi tiếng, với những đóng góp quan trọng cho ngành ngoại giao, trực tiếp làm Bộ trưởng Ngoại giao giai đoạn 1954 – 1961. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao và đường lối quốc tế, chính sách đối ngoại của Đảng, Thủ tướng Phạm Văn Đồng là một chính khách nhiều tài năng, có uy tín trên thế giới và có những đóng góp to lớn cho nền ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, đại diện xứng đáng cho "trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh".

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng và các thành viên Ủy ban quốc tế giám sát việc thi hành Hiệp định Geneva ngày 12/8/1954.

Năm 1946, ông là Trưởng phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Fontainebleau (Pháp) nhằm tìm một giải pháp độc lập cho Đông Dương. Hội nghị này đã không thành công do Pháp không trả lời dứt khoát về việc ấn định thời hạn thực hiện cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ. Tuy nhiên, hình ảnh vị trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gầy gò, đi đi lại lại suy nghĩ đắn đo tìm giải pháp đàm phán tại hội nghị, trong một đoạn phim tài liệu “Hồ Chí Minh, chân dung một con người” vẫn luôn khiến người xem xúc động.

Năm 1954, với cương vị là Phó Thủ tướng Chính phủ, đồng chí Phạm Văn Đồng được Trung ương Đảng và Chính phủ cử làm Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ nước ta tham dự Hội nghị Geneva, Thuỵ Sỹ về lập lại hòa bình ở Đông Dương và Việt Nam. Trải qua tám phiên họp toàn thể và 23 phiên họp rất căng thẳng và phức tạp, với tinh thần chủ động và cố gắng của phái đoàn Việt Nam, ngày 20/7/1954, bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Campuchia và Lào đã được ký kết, thừa nhận tôn trọng độc lập, chủ quyền, của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Thời điểm đó, quan hệ quốc tế phức tạp. Hoàn cảnh của đoàn ta rất khó khăn, thiếu thốn, không có thông tin, thông tin có được phải nhờ qua các bạn Liên Xô, Trung Quốc, việc xin ý kiến, trao đổi giữa trong và ngoài nước cũng phải nhờ bạn Trung Quốc dịch và chuyển điện giúp…. Đoàn đàm phán Việt Nam do đồng chí Phạm Văn Đồng đứng đầu đã khắc phục khó khăn, có những đóng góp quan trọng, kiên trì tìm biện pháp đảm bảo lợi ích của đất nước, của cách mạng Đông Dương, của hai chính phủ kháng chiến Pathét Lào và Khơ me Issarak. Hình ảnh về nhà ngoại giao với đôi mắt sáng, vầng trán cao và đặc biệt là những phát biểu đanh thép, những cuộc trả lời phỏng vấn sắc sảo tại Hội nghị Geneva năm 1954 ở Thụy Sỹ vẫn còn được bạn bè quốc tế nhắc đến, là niềm tự hào, là tấm gương không chỉ đối với ngành Ngoại giao.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với cương vị là Thủ tướng Chính phủ, có giai đoạn trực tiếp lãnh đạo ngành ngoại giao từ năm 1955 - 1961, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có nhiều đóng góp to lớn trong việc lãnh đạo Chính phủ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam. Chính phủ đã kịp thời ra Tuyên bố nêu rõ lập trường và những nguyên tắc lớn của một giải pháp thỏa đáng để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam (tuyên bố bốn điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà ngày 8/4/1965), đấu tranh với các luận điệu chiến tranh của Mỹ, vận động, tranh thủ sự ủng hộ của các nước XHCN và nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, thực hiện Di chúc của Bác Hồ, cùng với các nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thay mặt nhà nước và nhân dân ta đi thăm và cảm ơn nhân dân các nước anh em và bạn bè trên thế giới, bao gồm các nước XHCN, các nước láng giềng Lào, Campuchia, các nước trong ASEAN và cả các nước TBCN (Pháp, Phần Lan và Đan Mạch năm 1977) để mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại . Các chuyến thăm cùng với phong cách ngoại giao chân tình, gần gũi của ông đã gây được ấn tượng mạnh đối với bạn bè khắp nơi, giúp củng cố tình đoàn kết, hữu nghị của Chính phủ và nhân dân Việt Nam với chính phủ và nhân dân các nước, thể hiện tinh thần đoàn kết, hữu nghị, thuỷ chung, trước sau như một của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.

Về công tác xây dựng ngành, trên cương vị Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã dành nhiều thời gian, công sức cho việc xây dựng bồi dưỡng cán bộ, cơ cấu lại bộ máy của Bộ Ngoại giao và mạng lưới hoạt động đối ngoại cho phù hợp với nhiệm vụ đấu tranh thống nhất nước nhà và khôi phục, phát triển đất nước. Những hoạt động ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn Đồng để lại dấu ấn văn hóa sâu đậm trong nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, làm giàu thêm bản sắc ngoại giao Việt Nam. Nhiều thế hệ cán bộ ngoại giao Việt Nam đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng dìu dắt trưởng thành và trở thành những cán bộ chủ chốt của ngành Ngoại giao. 

Với 94 năm cuộc đời, 75 năm hoạt động cách mạng, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng và Nhà nước ta đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Di sản của ông không chỉ là cuộc đời cách mạng vinh quang, tự hào mà còn là cốt cách con người đáng kính, suốt đời học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong đó, có thể nói rằng, những hoạt động ngoại giao trong quá trình hoạt động cách mạng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trở thành một phần quan trọng làm nên tên tuổi của ông và ngược lại, tên tuổi của ông cũng đã góp phần làm nên truyền thống vẻ vang tự hào của ngành ngoại giao Việt Nam.

(Nghiên cứu sinh Học viên Ngoại giao)