Nhỏ Bình thường Lớn

Trạm gác cuối cùng cho ngư dân

Ông thấu hiểu giá trị của hai chữ “tự do” đối với những ngư dân Việt nguyện một đời gắn với biển khơi bao la nhưng chỉ vì đi lạc đường hay phiêu lưu sang vùng biển nước bạn mà phải ngồi sau song sắt xứ người. Vì vậy, ông luôn tâm niệm phải làm việc bằng cả con tim và khối óc giúp họ trở về quê hương.
TIN LIÊN QUAN
tram gac cuoi cung cho ngu dan Bảo hộ 38 ngư dân Việt Nam bị bắt

Ông chính là Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan Nguyễn Tất Thành.

“Nhất nhật tại tù...”

Ông Thành kể: Thời gian qua, ngày nào theo dõi thông tin, tôi cũng lo sẽ có thêm ngư dân Việt Nam bị bắt. Chỉ trong khoảng hai tháng , hàng chục tàu cá với trên 200 ngư dân Việt Nam bị phía Thái Lan bắt giữ. Theo luật pháp của nước sở tại, họ sẽ phải ngồi tù nếu bị xác định là đã vi phạm vùng biển nước này.

Gần đây còn có hiện tượng một số tàu bị phát hiện có mang theo loại lưới quét bị chính quyền Thái Lan cấm sử dụng, hay có tàu còn đánh bắt cả cá heo (loài cá quý hiếm được quốc tế bảo vệ). Đây là vấn đề liên quan tới ý thức pháp luật của ngư dân, nhất là tài công. Tôi chắc đa số ngư dân Việt Nam không biết rằng việc đánh bắt cá heo, ngoài việc bị phạt tiền, có thể bị phạt tù giam lên tới 4 năm, áp dụng như nhau đối với cả tài công và ngư dân. Việc sử dụng lưới quét cũng là một tình tiết tăng án tù đáng kể. Đương nhiên, một số người có thể “làm liều”, nhưng đó chỉ là số ít. Những người này rất cần sự quan tâm, hỗ trợ của chính quyền và người dân địa phương.

Tôi đã có dịp gặp ngư dân ta ở trong nước, nay sang đây lại gặp họ. Trước đây, họ phóng khoáng, mạnh mẽ và yêu đời, nay trong trại giam ở Thái Lan, họ buồn, tiếc nuối và nhớ nhà. Nhiều người không thể tự giải thích vì sao họ phải ở đây? Tôi tin rằng nếu ngư dân thực sự biết việc mình đang làm và những hậu quả tất yếu của nó đối với bản thân và gia đình, hiểu rõ luật pháp và các chế tài của Thái Lan, họ sẽ cẩn thận để không đi lạc sang hay đi vào vùng biển nước khác.

tram gac cuoi cung cho ngu dan
Đại sứ Nguyễn Tất Thành (thứ 7 từ trái) trong chuyến thăm ngư dân ta ở tỉnh Pattani, Thái Lan, tháng 11/2015.

Công việc bảo hộ công dân đòi hỏi cả khối óc và trái tim. Đôi khi, Đại sứ cần tham gia  trực tiếp để nắm bắt được vấn đề, xác lập các mối quan hệ lâu dài và tạo cơ sở bảo hộ tốt nhất cho công dân.

Trước năm 2015, chưa có cán bộ nào của Đại sứ quán Việt Nam có thể đến tận nơi thăm ngư dân ta ở các tỉnh miền Nam Thái Lan, chủ yếu do tình hình an ninh có nơi, có lúc chưa thật bảo đảm. Công tác bảo hộ ngư dân của Đại sứ quán được triển khai chủ yếu thông qua trao đổi với đại diện Bộ Ngoại giao, Hải quân và Cảnh sát Thái Lan tại Bangkok hoặc qua điện thoại với các địa phương bạn.

Được sự hỗ trợ của phía Thái Lan và Hội Chữ thập đỏ quốc tế, cuối năm 2015 và đầu năm 2016, Đại sứ quán Việt Nam đã ba lần thăm ngư dân ta ở các tỉnh Songkhla, Pattani và Narathiwat. Tôi được biết, Việt Nam là nước thứ hai có lãnh đạo Đại sứ quán đến thăm các trại giam ở khu vực này. Đây có thể coi là một đột phá, vừa hỗ trợ trực tiếp cho ngư dân ta, vừa giúp chính quyền địa phương Thái Lan hiểu rõ sự quan tâm của Việt Nam đối với công dân nước mình. Từ đó đến nay, công tác bảo hộ ngư dân tại các tỉnh miền Nam Thái Lan được cải thiện rõ rệt.

Tôi nhớ tới trường hợp hai cha con ngư dân người Cà Mau bị bắt ở miền Nam Thái Lan. Sau khi mãn hạn tù, họ được đưa về Bangkok để về nước theo đường hàng không, nhưng mấy tháng liền không về nước được. Theo quy định hiện hành của Việt Nam, chỉ sau khi người thân chuyển tiền đặt cọc cho Sở Ngoại vụ địa phương nơi có ngư dân bị bắt (cụ thể trường hợp này là Cà Mau), Sở sẽ thông báo cho Quỹ Bảo hộ công dân, Quỹ thông báo cho Đại sứ quán, ngư dân mới được thu xếp về nước. Hai người này đã tìm mọi cách liên hệ với gia đình và người thân nhưng biệt vô âm tín.

Nhìn vào ánh mắt họ, tôi hiểu thế nào là “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” (một ngày tù nghìn thu ở ngoài). Ngay khi biết tin, chúng tôi đã quyết định hỗ trợ họ về nước bằng tiền cá nhân, đổi lại họ hứa với chúng tôi sẽ không bao giờ đi sang các vùng biển nước ngoài nữa.

Cuối tháng Ba vừa qua, báo chí Thái Lan đưa tin có 38 ngư dân Việt Nam trên 7 tàu đã bị lực lượng tuần tra của Hải quân bắt giữ khi đang đánh bắt cá tại khu vực đảo Koh Kra cách bờ biển phía nam tỉnh Nakhong Si Thamarat 30 hải lý. ngay khi có thông tin, Đại sứ quán đã sử dụng đường dây nóng với nhà tù trung tâm tại Song Kha, nói chuyện với đại diện nhà tù và đại diện 38 ngư dân Việt Nam đang bị giam giữ. Đại sứ quán muốn bảo đảm tất cả những ngư dân Việt Nam nếu bị bắt giữ như 38 ngư dân này sẽ được đối xử một cách đúng đắn, phù hợp với thông lệ quốc tế, luật pháp quốc tế cũng như là luật pháp Thái Lan và thúc đẩy để chính quyền Thái Lan đưa họ ra xét xử sớm nhất.

Khi “sai đường”...

Về phương hướng giải quyết, tôi cho rằng đây là vấn đề không thể giải quyết một sớm một chiều và cần sự quan tâm, nguồn lực hỗ trợ của nhiều ngành và địa phương. Theo tôi, trước tiên, chúng ta cần phải có những hướng đi, biện pháp mới và cụ thể để hỗ trợ ngư dân khai thác và phát triển bền vững nguồn lợi hải sản trong vùng biển Việt Nam.

Thứ hai, cần cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ cho ngư dân, đặc biệt là các chủ tàu và tài công, về luật pháp quốc tế và quy định của các nước, thuyết phục họ giữ gìn kỷ cương, tuân thủ luật pháp. Những người như hai cha con ngư dân Cà Mau sẽ là một bài học kinh nghiệm quý cho ngư dân ta.

Thứ ba, tận dụng mọi khả năng mở rộng hợp tác thiết thực với các nước liên quan về đánh bắt cá trên biển. Với Thái Lan, năm nay, chúng ta đã xác lập cơ chế tham vấn lãnh sự hàng năm, tập trung thảo luận vấn đề ngư dân. Cũng trong năm 2015, hai nước đã ký kết văn bản hợp tác về lao động, trong đó có lao động trong ngành ngư nghiệp. Dự kiến trong năm nay, ngư dân ta có thể sang Thái Lan làm việc cho doanh nghiệp Thái, đánh bắt hợp pháp theo các quy định của luật pháp Thái Lan. Hiện nay, hai nước cũng đang xúc tiến đàm phán một hiệp định về hỗ trợ tư pháp, một công cụ có thể hỗ trợ đắc lực cho công tác bảo hộ ngư dân.

Thứ tư, có lẽ đã đến lúc các cấp chính quyền địa phương liên quan cần cân nhắc thêm một số biện pháp hành chính cụ thể để thưởng, phạt công minh đối với những doanh nghiệp đánh bắt cá và ngư dân, nhất là các chủ tàu và tài công.

Thứ năm, hỗ trợ ngư dân cần được coi là một nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của các cấp, các ngành, trong đó có các cơ quan thông tấn, báo chí.

Công tác bảo hộ công dân nói chung và bảo hộ ngư dân nói riêng của Đại sứ quán Việt Nam tại Thái Lan luôn nhận được sự quan tâm hỗ trợ thường xuyên từ các cơ quan trong nước. Chúng tôi luôn được sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Bộ Ngoại giao, hướng dẫn cụ thể của Cục Lãnh sự, sự phối hợp tích cực của các địa phương trong nước. Đây là chỗ dựa và là nguồn động viên đối với chúng tôi. Về phần mình, các cơ quan chức năng của Thái Lan cũng chủ động cung cấp thông tin và hỗ trợ Đại sứ quán tiến hành công tác bảo hộ ngư dân.

Song thực tế chúng tôi gặp không ít khó khăn, chủ yếu do hạn chế về nguồn lực. Đại sứ quán có duy nhất một cán bộ chuyên trách công tác bảo hộ công dân trải rộng 54/77 tỉnh, thành của Thái Lan, trong đó bao gồm toàn bộ 23 tỉnh ven biển. Vì vậy, chúng tôi xác định, bảo hộ công dân là nhiệm vụ chung của toàn thể cán bộ, nhân viên Đại sứ quán, kể cả các cán bộ khoa học-công nghệ, thương vụ hay chính trị….

Quỹ Bảo hộ công dân giúp chúng tôi chủ động triển khai nhiệm vụ như chi trả kinh phí cấp giấy thông hành cho ngư dân về nước. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cần thiết, chúng tôi không sử dụng được Quỹ này do những quy định về quản lý tài chính. Ngoài ra, nhiều khi chúng tôi phải tận dụng những món quà mà các đoàn trong nước tặng cho Đại sứ quán khi tới thăm để làm quà cho ngư dân ta hoặc đại diện các cơ quan chức năng ở địa phương của nước sở tại. Điều tích cực là ngư dân ta rất xúc động khi được biết, món quà mà họ nhận được là từ Thủ tướng Chính phủ hay từ một lãnh đạo cấp tỉnh của Việt Nam.

Phạm Hằng