Một năm qua, trong bối cảnh cuộc đọ sức chiến lược tại châu Á-Thái Bình Dương tăng lên, xu thế tăng cường và nâng cấp của nhóm Bộ tứ (Quad) gồm Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Australia ngày càng thu hút sự chú ý của dư luận.
Dù thay đổi chính quyền, nhưng xuất phát từ mục tiêu thúc đẩy ngoại giao mang tính chiến lược, chính phủ Nhật Bản vẫn đẩy mạnh bố trí ngoại giao xoay quanh khuôn khổ ý tưởng “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở”, tích cực thúc đẩy sự tương tác chiến lược của nhóm Bộ tứ.
Khu trục hạm Akebono và Murasame của Nhật Bản tham gia diễn tập ở bờ biển Brunei. (Nguồn: AP) |
Vai trò thúc đẩy quan trọng
Năm 2020, cuộc đọ sức địa chính trị giữa các nước lớn trên thế giới trở nên gay gắt hơn do tác động của dịch Covid-19, khiến quá trình tái định hình trật tự khu vực châu Á-Thái Bình Dương cũng trở nên phức tạp hơn.
Dưới sự thúc đẩy của tư duy đối đầu với Trung Quốc của Mỹ và ngoại giao tích cực, nhóm Bộ tứ đã tăng cường hưởng ứng và hợp tác chiến lược xoay quanh cái gọi là “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở”, trong đó Nhật Bản đóng vai trò thúc đẩy quan trọng.
Trên thực tế, trong ý tưởng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở của Nhật Bản, nhóm Bộ tứ với hạt nhân là liên minh Mỹ-Nhật không những là bộ khung quyền lực của khu vực này, mà còn là hệ thống hỗ trợ cho quy tắc trật tự và quan niệm giá trị liên quan.
Từ chính quyền Abe Shinzo đến chính quyền Suga Yoshihide đều cố gắng tích hợp ý tưởng này vào cấu trúc then chốt của chiến lược ngoại giao Nhật Bản như ngoại giao nước lớn, ngoại giao láng giềng và xây dựng trật tự thế giới hoặc khu vực.
Hiện tại, ý tưởng “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở” đã trở thành một trong những trụ cột cơ bản của chiến lược ngoại giao Nhật Bản. Đây là công cụ chiến lược chủ yếu để Nhật Bản thúc đẩy hợp tác song phương, đa phương trong nhóm Bộ tứ với trọng tâm là khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và sợi dây liên kết chính là lợi ích thực tế và ý thức hệ.
Bốn khía cạnh chiến lược
Trong năm 2020, việc Nhật Bản thúc đẩy sự phối hợp chiến lược trong khuôn khổ nhóm Bộ tứ chủ yếu được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, chủ trì và thúc đẩy đối thoại chiến lược nhóm Bộ tứ. Đầu tháng 10/2020, Ngoại trưởng Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Australia đã nhóm họp tại Tokyo, đây là hội nghị ngoại trưởng lần thứ 2 của nhóm Bộ tứ tiếp sau hội nghị được tổ chức tại New York bên lề cuộc họp Đại hội đồng Liên hợp quốc.
Với tư cách là nước chủ nhà, Nhật Bản đã tích cực định hướng cho các bên tập trung vào hợp tác chiến lược, hàn gắn bất đồng, và ủng hộ mạnh mẽ việc tiếp tục triển khai đàm phán cấp làm việc của Bộ tứ đã được tái khởi động vào tháng 11/2017.
Một số quan chức và chuyên gia của Nhật Bản còn tích cực kiến nghị sớm nâng cấp hội nghị ngoại trưởng Bộ tứ cần thành hội nghị thượng đỉnh để từng bước củng cố và nâng cấp cơ chế đối thoại chiến lược giữa 4 nước này.
Thứ hai, ủng hộ việc khai thông hệ thống hợp tác quốc phòng. Nhật Bản tích cực chủ trương mở rộng phạm vi hợp tác quốc phòng từ khuôn khổ ba bên Mỹ-Nhật-Ấn, Mỹ-Nhật-Australia thành 4 bên, nhất là tập trận trên biển.
Tháng 11/2020, lần đầu tiên sau 13 năm, 4 nước Mỹ-Nhật-Ấn-Australia cùng tham gia tập trận hải quân Malabar.
Tháng 11/2020, Bộ tứ lần đầu tiên tham gia tập trận Malabar 2020 kể từ năm 2007. (Nguồn: Hải quân Ấn Độ) |
Ngoài ra, tháng 9/2020, Nhật Bản và Ấn Độ đã ký kết Hiệp định trao đổi hậu cần quốc phòng. Tháng 11/2020, trong chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Australia Morrison, hai nước đã đạt được nhất trí về việc ký kết Thỏa thuận tiếp cận qua lại (RAA).
Trung tuần tháng 12, Lực lượng phòng vệ mặt đất của Nhật Bản lần đầu tiên tuyên bố tiếp nhận sỹ quan quân đội Australia làm liên lạc viên.
Các động thái trên kết hợp với hợp tác quốc phòng Nhật-Mỹ đã góp phần tăng cường hơn nữa hợp tác quốc phòng giữa 4 bên trên các lĩnh vực như chia sẻ thông tin tình báo, tập trận chung và đảm bảo hậu cần.
Thứ ba, thúc đẩy và tăng cường vai trò hợp tác kinh tế. Từ tháng 11/2019, Mỹ, Nhật Bản và Australia đã công khai khởi xướng kế hoạch Mạng lưới điểm xanh (BDN) nhằm thiết lập tiêu chuẩn cho các dự án cơ sở hạ tầng quốc tế.
Trong 1 năm qua, Nhật Bản đã phát huy vai trò quan trọng trong việc xây dựng quy tắc và cơ chế các dự án liên quan, đồng thời coi đây là cơ sở để thúc đẩy các bên tăng cường hợp tác trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng chất lượng cao.
Tháng 9/2020, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia lại công khai đưa ra Sáng kiến phục hồi chuỗi cung ứng (SCRI) dưới danh nghĩa đảm bảo an ninh kinh tế trong thời kỳ đại dịch, qua đó cùng Mỹ tăng cường hợp tác trong chuỗi cung ứng sản xuất.
Rõ ràng, Nhật Bản là bên tích cực nhất trong 4 bên khi thúc đẩy chức năng hợp tác kinh tế trong khuôn khổ ý tưởng về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và tìm kiếm cơ hội kiểm soát trật tự an ninh khu vực.
Thứ tư, cùng tăng cường vai trò chủ đạo về an ninh hàng hải. Sự tương tác chiến lược giữa nhóm Bộ tứ ngày càng mang màu sắc “liên minh quyền lực trên biển”.
Trong đó, Nhật Bản tiếp tục ủng hộ nguyên tắc tự do hàng hải và pháp trị biển, đồng thời tích cực thúc đẩy Bộ tứ quan tâm nhiều hơn đến vấn đề an ninh hàng hải, bày tỏ sự ủng hộ lẫn nhau trên các diễn đàn quốc tế, dẫn dắt chương trình nghị sự đa phương.
Đáng chú ý là sự hỗ trợ thực chất cho các bên can dự vào vấn đề Biển Đông, ủng hộ các nước ven bờ xây dựng năng lực bảo đảm an ninh hàng hải, cùng bảo đảm ảnh hưởng chiến lược.
Từ điều phối đến lãnh đạo
Mỹ với sức mạnh mang tính áp đảo là nước đóng vai trò chủ đạo thực sự trong Bộ tứ. Tuy nhiên, không ít nhà quan sát đã chỉ ra rằng do ảnh hưởng chiến lược của Mỹ đang dần thu hẹp và sự gia tăng của xu hướng từ bỏ trạng thái đơn cực ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, nên vai trò của Nhật Bản ngày càng tăng lên.
Một báo cáo của Mỹ đã nhận định, Nhật Bản đang nỗ lực thay đổi vai trò từ nước điều phối trở thành nước lãnh đạo ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, điều này phản ánh sự tự tin chiến lược và tham vọng ngoại giao ngày càng tăng của nước này.
Một số nhà nghiên cứu chiến lược của Nhật Bản cho rằng so với trước đây, chiến lược của Mỹ đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương dưới thời chính quyền Trump đã thể hiện rõ tính khó đoán định, các nước trong khu vực ngày càng thiếu lòng tin vào cam kết và vai trò lãnh đạo của Mỹ.
Hơn nữa, sự mơ hồ chiến lược và mất cân bằng lực lượng do sự trỗi dậy của Trung Quốc tạo ra càng đòi hỏi Nhật Bản phải đảm nhận trách nhiệm ổn định trật tự nhiều hơn, cũng là mang đến cơ hội phát huy vai trò nước lãnh đạo.
Tokyo cho rằng nước này đang nắm giữ một số tài sản chiến lược có lợi cho mình: Một là, quan hệ Nhật-Mỹ tương đối ổn định và sự ủng hộ chiến lược của Mỹ; hai là, thành quả tích lũy ngoại giao lâu dài ở khu vực châu Á; ba là, có nền tảng hệ thống các quốc gia dân chủ và đóng góp cho cộng đồng quốc tế, cũng như có ưu thế là nước điều phối và đưa ra các kiến nghị quan trọng trong quá trình chuyển đổi mô hình trật tự quốc tế; bốn là, các bên đều có nỗi lo chung và thực hiện biện pháp phòng ngừa trước sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Trong quá trình thúc đẩy ý tưởng “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”, tư duy chiến lược của Nhật Bản được thể hiện ở hai khía cạnh là cạnh tranh địa chiến lược và điều phối hợp tác khu vực.
Trong đó, cạnh tranh địa chiến lược là xuất phát điểm của chiến lược Nhật Bản, còn điều phối hợp tác khu vực đóng vai trò hỗ trợ và tạo ra môi trường phát triển có lợi hơn cho cạnh tranh địa chiến lược.
Chiến lược cơ bản của Nhật Bản thời hậu Abe là nỗ lực làm mờ nhạt cạnh tranh địa chiến lược nhưng làm nổi bật vai trò điều phối hợp tác khu vực. Đặc biệt, chiến lược này nhấn mạnh vai trò tích cực của Nhật Bản trong việc cung cấp các sản phẩm công về an ninh và kinh tế khu vực.
Tuy nhiên, Nhật Bản cũng luôn kiên định với chủ trương xây dựng một cơ cấu quyền lực tập trung tất cả các nước lớn trong khu vực trừ Trung Quốc. Điều này phản ánh cạnh tranh địa chiến lược theo chủ nghĩa thực dụng vẫn là tư duy mang tính chủ đạo trong chiến lược của Nhật Bản.
Mặt khác, Nhật Bản cũng nhận thấy việc quá chú trọng khuôn khổ mang tính khép kín và bài xích của nhóm Bộ tứ không có lợi cho nước này triển khai ý tưởng “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”.
Xét cho cùng, Nhật Bản không thể bỏ qua Trung Quốc nếu muốn tối đa hóa lợi ích của mình trong hợp tác quản lý kinh tế và xã hội trong khu vực.
Điều này không những có thể tránh bị rơi vào thế phải “chọn bên”, thậm chí cuốn vào vòng xoáy xung đột trong cuộc đọ sức chiến lược nước lớn, mà còn là nhu cầu cơ bản của các nước vừa và nhỏ trong khu vực.
Nhật Bản không thể bỏ qua Trung Quốc nếu muốn tối đa hóa lợi ích của mình trong hợp tác quản lý kinh tế và xã hội trong khu vực. (Nguồn: Getty) |
Sự đa dạng hóa chiến lược
Để đảm bảo tính bền vững và hiệu quả của chiến lược đối ngoại, Nhật Bản một mặt ủng hộ hợp tác chiến lược trong nhóm Bộ tứ, mặt khác lại tìm kiếm sự đa dạng hóa các đối tượng và phương thức chiến lược.
Trong hệ thống nhóm Bộ tứ, trước tiên Nhật Bản phải đảm bảo được hợp tác chiến lược với Mỹ, trên cơ sở đó sẽ phát huy tối đa tình hữu nghị truyền thống và nhu cầu lợi ích thực tế trong quan hệ với Ấn Độ và Australia, hình thành quan hệ “chuẩn đồng minh”.
Ngoài ra, về chiến lược đa dạng hóa cơ chế Bộ tứ, Nhật Bản chủ yếu áp dụng các phương thức: Một là, ủng hộ ASEAN phát huy vai trò trung tâm, tăng cường sự kết nối chiến lược và phụ thuộc lẫn nhau giữa Nhật Bản và các nước ASEAN ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Hai là, lôi kéo các nước lớn châu Âu tham gia, lấy danh nghĩa xây dựng khuôn khổ hợp tác rộng mở để ủng hộ Liên minh châu Âu (EU) và các nước lớn như Anh, Pháp, Đức tăng cường sự hiện diện chiến lược ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, dựa vào lực lượng bên ngoài để giành lấy vị trí có lợi.
Ba là, cân bằng tính hai mặt trong chính sách đối với Trung Quốc, không những thúc đẩy các thỏa thuận chiến lược liên quan phát huy vai trò kiềm chế Trung Quốc, mà còn cố gắng tránh tối đa đối đầu trực tiếp với Trung Quốc.
Vì lý do này mà Nhật Bản công khai bày tỏ quan điểm không muốn nhóm Bộ tứ trở thành khuôn khổ mang tính đối đầu nhằm vào một quốc gia cụ thể nào, chẳng hạn như cái gọi là “NATO phiên bản châu Á”.
Xu hướng hành động
Do tình hình dịch Covid-19 ở Nhật Bản vẫn diễn biến phức tạp, chính phủ Nhật Bản phải tập trung vào các công tác đối nội như ưu tiên phòng chống dịch bệnh, tuy nhiên trong chính sách đối ngoại vẫn tích cực ứng phó với những thay đổi của cục diện quốc tế.
Ngày 1/1/2021, trong bài phát biểu đầu năm mới, Thủ tướng Suga Yoshihide khẳng định: “Ngay cả khi tình hình quốc tế ngày càng trở nên bất ổn thì phương châm ngoại giao của Nhật Bản vẫn không thay đổi.
Trên cơ sở liên minh Nhật-Mỹ, Nhật Bản sẽ thúc đẩy các hành động chiến lược nhằm hiện thực hóa khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở, đồng thời sẽ xây dựng quan hệ ổn định với các nước láng giềng”.
Ngày 3/1, trả lời tại buổi họp báo, Thủ tướng Suga cho biết Nhật Bản sẽ coi trọng chủ nghĩa đa phương, mong muốn đóng vai trò dẫn dắt trong việc xây dựng trật tự quốc tế thời hậu Covid-19.
Ngoài ra, ông Suga nhấn mạnh: “Mỹ là đối tác quan trọng nhất của Nhật Bản. Tôi hy vọng có thể sớm gặp Tổng thống Biden để củng cố hơn nữa quan hệ đồng minh Nhật-Mỹ.
Đồng thời, Nhật Bản sẽ tăng cường hợp tác với Australia, Ấn Độ và các nước châu Âu và ASEAN, cùng hành động cho một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở”.
Tokyo muốn tận dụng cơ hội chính quyền Biden lên cầm quyền, nắm chắc các mâu thuẫn chủ yếu, tăng cường ảnh hưởng, thúc đẩy Mỹ quay trở lại hệ thống điều phối các đồng minh tại châu Á-Thái Bình Dương, qua đó tăng cường hợp tác toàn diện với các “đồng minh dân chủ”.
Tuy nhiên, Nhật Bản cũng nhấn mạnh phải duy trì sự ổn định chiến lược với các nước láng giềng như Trung Quốc. Trong cuộc hội kiến Ủy viên Quốc vụ kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị vào cuối tháng 11/2020, Thủ tướng Suga nhấn mạnh ông đặc biệt coi trọng quan hệ Nhật-Trung và sẵn sàng cùng với Trung Quốc thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển ổn định.
Việc Nhật Bản thúc đẩy ý tưởng “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”, bao gồm cả phương thức chiến lược thúc đẩy sự tương tác chiến lược trong nhóm Bộ tứ, không những phản ánh cách thức Nhật Bản đối phó với áp lực mang tính hệ thống từ bên ngoài, đặc biệt là những thay đổi của cục diện địa chính trị khu vực, mà còn phản ánh chủ nghĩa thực dụng và xu hướng chiến lược ngoại giao của nước này.
Cho dù là từ góc độ chính trị quyền lực hay ý thức hệ, Nhật Bản đều sẽ coi nhóm Bộ tứ là phương thức trực tiếp và đáng tin cậy để tối đa hóa quyền lực của mình.
Tuy nhiên, có nhiều ý kiến, kể cả những người am hiểu về Nhật Bản cho rằng mặc dù chưa rõ tình hình cạnh tranh chiến lược Trung-Mỹ trong tương lai, nhưng xu thế chung của khu vực châu Á-Thái Bình Dương và khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vẫn là hòa bình, hợp tác và phát triển.
Dù dịch Covid-19 đã làm gia tăng mâu thuẫn giữa các nước, nhưng trong trung và dài hạn, nó lại góp phần thúc đẩy hơn nữa nhu cầu hợp tác quốc tế và khu vực.
Trong bối cảnh đó, tương lai của chiến lược Nhật Bản, bao gồm cả tham vọng giành lấy vai trò lãnh đạo được quyết định bởi việc liệu các biện pháp chiến lược có đạt được tính cân bằng và tính phối hợp thực sự.
Đặc biệt là liệu có vượt ra khỏi được khuôn khổ chiến lược và tư duy cố hữu, cũng như xử lý một cách có lý trí và mang tính xây dựng quan hệ với Trung Quốc hay không, đồng thời trên cơ sở đó tham gia việc thúc đẩy hợp tác khu vực châu Á-Thái Bình Dương rộng mở hơn.