Sự kiện do Văn phòng UNESCO tại Việt Nam tổ chức, phối hợp với Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục (Bộ Giáo dục và Đào tạo), Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Tập đoàn CJ cùng các đại diện của Ủy ban Dân tộc, các tỉnh thuộc dự án, Tạp chí Ngày Nay và các đối tác khác của UNESCO.
UNESCO và các đối tác tiếp tục cam kết thúc đẩy bình đẳng giới và giáo dục cho trẻ em gái ở Việt Nam. (Ảnh: Lê An) |
Tại Việt Nam, các vùng dân tộc thiểu số thường gặp nhiều khó khăn hơn so với các vùng dân số khác bởi các định kiến và rào cản văn hóa. Mặc dù đã có những tiến bộ trong phổ cập giáo dục cơ bản, trẻ em dân tộc thiểu số, đặc biệt là trẻ em gái vẫn có nguy cơ bỏ học cao hơn các nhóm trẻ em khác.
Dự án “Chúng tôi Có thể” (We are ABLE) được khởi xướng nhằm góp phần giải quyết vấn đề này. Với khẩu hiệu “Hướng đến Mức sống và Giáo dục tốt hơn” viết tắt là “ABLE” (Có thể), dự án khẳng định niềm tin vào năng lực vượt qua thử thách, khó khăn của trẻ em dân tộc thiểu số, đặc biệt là trẻ em gái.
Phát biểu tại buổi lễ, bà Justine Sass, Trưởng ban Giới và Hòa nhập trong Giáo dục của Trụ sở chính UNESCO tại Paris, nhấn mạnh: “Giáo dục là một công cụ trao quyền mạnh mẽ bởi giáo dục có thể giải quyết được những rào cản, sự kỳ thị và phân biệt đối xử dựa trên cơ sở giới đang cản trở người học thực hiện quyền được giáo dục và các cơ hội trong cuộc sống, công việc và định hướng trong tương lai.
Chúng ta phải khai thác sức mạnh của giáo dục để khơi sáng những tiềm năng của người học và tôn trọng sự đa dạng của họ cũng như việc chuyển đổi các tổ chức giáo dục để đạt được công bằng xã hội, bình đẳng và hòa nhập".
Giai đoạn II của dự án “Chúng tôi Có thể” sẽ được triển khai tại các tỉnh Cao Bằng, Kon Tum và Ninh Thuận, với mục tiêu tiếp tục trao quyền cho thanh niên dân tộc thiểu số, đặc biệt là trẻ em gái và nữ thanh niên tại các trường trung học cơ sở nội trú và các vùng lân cận, để vượt qua định kiến, lên tiếng và hành động vì ước mơ, hy vọng và nguyện vọng trong giáo dục.
Trưởng đại diện UNESCO tại Việt Nam Christian Manhart phát biểu tại sự kiện. (Ảnh: Lê An) |
Giai đoạn II sẽ xây dựng các kỹ năng và nền tảng, thúc đẩy một môi trường thuận lợi cho các hoạt động truyền thông và vận động do học sinh khởi xướng, và tăng cường cam kết của Chính phủ về giáo dục cho trẻ em và thanh niên dân tộc thiểu số, đặc biệt là trẻ em gái.
Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tiếp tục là đối tác chính để triển khai dự án cùng với UNESCO, bên cạnh đó Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, một đối tác mới của dự án, sẽ hỗ trợ các hoạt động truyền thông và vận động do học sinh khởi xướng và thúc đẩy giáo dục cho trẻ em gái thông qua tiếp cận cộng đồng, các diễn đàn địa phương và trung ương. Tạp chí Ngày Nay sẽ củng cố các hoạt động truyền thông của dự án.
Ông Christian Manhart, Trưởng đại diện UNESCO tại Việt Nam, chia sẻ: “Dự án được kỳ vọng sẽ đóng góp vào Kế hoạch Chiến lược phát triển Giáo dục giai đoạn 2021-2030 của Chính phủ Việt Nam, Chiến lược công tác dân tộc và cam kết quốc gia trong việc đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững, đặc biệt là Mục tiêu 4 về Giáo dục và Mục tiêu 5 về Bình đẳng giới”.
Tại buổi lễ, ông Vũ Minh Đức, Cục trưởng, Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo và bà Bế Thị Hồng Vân, Phó Vụ trưởng, Vụ chính sách dân tộc, Ủy Ban dân tộc, bày tỏ sự cảm kích đối UNESCO và các đối tác khác của dự án.
Ông Vũ Minh Đức cũng đề nghị các Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Cao Bằng, Kon Tum và Ninh Thuận tiếp tục chỉ đạo triển khai các hoạt động dự án để đạt được thành tựu như giai đoạn I.
Nam ca sĩ Hàn Quốc Isaac Hong biểu diễn và giao lưu tại sự kiện. (Ảnh: Lê An) |
Ngoài ra, Tập đoàn CJ tiếp tục là nhà tài trợ chính trong Giai đoạn II của dự án. Bà Hee Kyung Jo Min, Phó Chủ tịch CJ CheiJedang - Giám đốc các Chương trình Cống hiến xã hội của CJ CheilJedang tại Hàn Quốc, cũng chia sẻ:
“Dự án đầu tiên thành công bất chấp tình hình đại dịch Covid-19 là nhờ sự tham gia nhiệt tình của không chỉ học sinh mà còn có thầy cô, phụ huynh, cộng đồng và Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam”. “Chúng tôi cũng sẽ nỗ lực hết mình để giúp đỡ nhiều trẻ em tiếp cận giáo dục hơn mà không bị phân biệt đối xử và phát triển thành những tài năng dẫn dắt tương lai của Việt Nam dựa trên triết lý chia sẻ của CJ.”
Tại sự kiện, hai ca sĩ nổi tiếng của Hàn Quốc và Việt Nam là Isaac Hong và Phương Mỹ Chi, đã trình diễn một số ca khúc như một lời kêu gọi sự quan tâm của cộng đồng để hỗ trợ những nỗ lực của dự án về giáo dục trẻ em gái dân tộc thiểu số.
Ca sĩ trẻ Phương Mỹ Chi truyền thông điệp của dự án khi tham gia sự kiện. (Ảnh: Lê An) |
Giai đoạn I của dự án do UNESCO thực hiện từ năm 2019-2022, phối hợp cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Ủy ban Dân tộc, được tài trợ bởi Quỹ Malala UNESCO về Quyền giáo dục cho trẻ em gái với hỗ trợ tài chính và kỹ thuật từ Tập đoàn CJ. Dự án tập trung triển khai tại 12 huyện ở ba tỉnh: Hà Giang, Ninh Thuận và Sóc Trăng đã đạt được thành công trong việc đáp ứng được các đầu ra mong đợi nhằm tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục và duy trì việc học của trẻ em gái, đặc biệt là trẻ em gái dân tộc thiểu số, tạo cơ hội việc làm tốt hơn cho trẻ em gái và phụ nữ dân tộc thiểu số. Dự án Giai đoạn I đã tiếp cận được 16.296 học sinh (trong đó có 8.021 nữ sinh). Tại 24 trường dự án, trong số học sinh dân tộc thiểu số, tỷ lệ nhập học tăng từ 62% lên 67%, tỷ lệ bỏ học giảm từ 3,8% xuống 2,9% và tỷ lệ chuyển tiếp lên trung học cơ sở tăng từ 69,7% lên 76,7%. 2.136 giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đã được đào tạo về tư vấn trường học có nhạy cảm giới và hàng nghìn người khác sẽ được tiếp cận thông qua việc triển khai khóa học trực tuyến trên toàn quốc. Đặc biệt, 120 phụ nữ và thanh niên dân tộc thiểu số đã được đào tạo nâng cao năng lực khởi nghiệp và tiếp tục được hỗ trợ thông qua Hội Phụ nữ xã. Ông Nguyễn Văn Thái, Phó Hiệu trưởng, Trường Phổ thông dân tộc bán trú Minh Tân, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, cho biết: “Nhiều năm gần đây song song với dự án ”Chúng tôi Có thể”, nhà trường đã thu hút được 100% học sinh đến trường, không có trẻ em phải nghỉ học đi lấy chồng. Đó là thành công của nhà trường và bước đầu hình thành cho các em về hướng nghiệp qua các buổi tham quan thực tế các mô hình tại địa phương". |