Vĩ tuyến 17, đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải (tỉnh Quảng Trị) là những địa danh đã đi vào lịch sử Việt Nam, gắn liền với một giai đoạn lịch sử đất nước bị chia cắt. Trong nỗi đau đất nước tạm thời chia làm 2 miền, mặc cho bom đạn giày xéo, nhưng con người nơi đây vẫn mang trong mình khát vọng mãnh liệt, niềm khát khao hòa bình, thống nhất, non sông thu về một mối.
Nhiệm vụ sinh tử
Đại tá Nguyễn Thanh Hà, nguyên phân đội trưởng phân đội 1, Công an giới tuyến. (Ảnh: Nguyễn Hồng) |
Về Quảng Trị những ngày tháng 4 lịch sử, chúng tôi có dịp trò chuyện với Đại tá Nguyễn Thanh Hà, nguyên phân đội trưởng phân đội 1, Công an giới tuyến - nhân chứng lịch sử hiếm hoi từng trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ cột cờ giới tuyến năm xưa. Dù đã ngoài 90, nhưng Đại tá Nguyễn Thanh Hà vẫn nhớ như in về năm tháng hào hùng chiến đấu bảo vệ cột cờ vĩ tuyến 17 của Tổ quốc.
Đại tá Nguyễn Thanh Hà nhớ lại, từ năm 1954-1965, cuộc đấu tranh của quân dân ta để bảo vệ Hiệp định Geneva, bảo vệ đầu cầu miền Bắc diễn ra quyết liệt. “Đó không chỉ là cuộc chiến bằng vũ khí mà còn là cuộc đấu tranh chính trị”, ông Nguyễn Thanh Hà nói.
Khi Hiệp định Geneva được ký kết năm 1954, Mỹ thay chân Pháp chiếm đóng ở miền Nam. Theo nội dung Hiệp định, khu vực 2 bên vĩ tuyến 17 trở thành vùng phi quân sự tạm thời cho đến khi tổng tuyển cử toàn quốc. Cấp trên cho thành lập 10 đồn công an vũ trang, nhưng nòng cốt vẫn là đồn công an vũ trang Hiền Lương.
Cột cờ Hiền Lương được xây dựng ở bờ Bắc sông Bến Hải nhằm xây dựng một biểu tượng về ý chí và tinh thần bất khuất của cả dân tộc hướng tới thống nhất hai miền. Bởi thế, cuộc đấu tranh bảo vệ cờ được coi là cuộc chiến sinh tử.
Trong Hiệp định Geneva, các đồn trạm công an dọc hai bờ Hiền Lương được phép treo cờ hàng ngày. Tuy nhiên, thực tế của việc treo cờ lại không hề đơn giản. Dưới mưa bom bão đạn của quân thù, chiến sĩ đồn công an Hiền Lương cùng nhân dân vẫn ngày ngày kiên cường chiến đấu bảo vệ và giữ cho lá cờ Tổ quốc luôn tung bay trên bầu trời giới tuyến.
Theo Đại tá Nguyễn Thanh Hà, để thực thi nhiệm vụ, 100 cán bộ chiến sĩ từ 3 đại đội 354, 340, 348 thuộc huyện Vĩnh Linh, Cam Lộ, Gio Linh đã chuyển quân ra bờ Bắc để thành lập “Đại đội công an giới tuyến” trực thuộc phái đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam trong tiểu ban liên hợp chiến trường Bình Trị Thiên.
Năm 1959, Khu công an nhân dân vũ trang Vĩnh Linh được thành lập, các đơn vị đồn trạm từ Cửa Tùng đến Cù Bai tổ chức thành 10 đồn và 1 trạm biên phòng giới tuyến.
Ngày 2/9/1954 - đúng dịp kỷ niệm 9 năm ngày Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Ban liên hợp đình chiến Bình Trị Thiên giao nhiệm vụ cho phân đội 1 Công an Hiền Lương dựng cờ trước đồn công an giới tuyến.
Quân ta cho dựng cột cờ bằng cây phi lao cao 12m treo lá cờ khổ 3,2x4,8m. Ở bờ Nam, quân Pháp liền cắm cờ lên nóc lô cốt cao 15m tại làng Xuân Hòa, Trung Hải, Gio Linh.
Lúc này, việc đi lại trên cầu Hiền Lương còn tự do, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân muốn nhìn thấy cờ của quân ta phải cao hơn cờ của địch nên các chiến sĩ đã về Rú Lịnh, Vĩnh Nam, Vĩnh Hòa và tìm được cây gỗ cao 18m để thay thế.
Nhận thấy phía Bắc cầu Hiền Lương có cờ lớn hơn, cột cao hơn, tháng 2/1956, sau khi chuyển giao chính quyền, Ngô Đình Diệm cho xây dựng hẳn một cột cờ bằng xi măng cốt thép kiên cố có chiều cao là 30m, trên đỉnh treo một lá cờ Việt Nam cộng hoà có đèn neon nhấp nháy đủ màu.
Toàn cảnh đôi bời Hiền Lương - Bến Hải năm 1964. (Ảnh chụp lại tư liệu tại Nhà trưng bày “Vĩ tuyến 17 và khát vọng thống nhất”) |
Do bị “khóa tuyến” nên việc đi lại trên cầu Hiền Lương không còn được tự do nữa. Bà con bờ Nam phải tìm cách nhắn sang bờ Bắc yêu cầu chiến sĩ ta tìm mọi cách để cột cờ phía bờ Bắc cao hơn.
Trước nguyện vọng của nhân dân cùng sự khiêu khích của giặc, Chính phủ Hà Nội giao cho Cục Cơ khí điện nước chịu trách nhiệm thiết kế, thi công cột cờ Hiền Lương. Tháng 7/1957, nhân kỷ niệm 3 năm ngày ký Hiệp định Geneva, một cột cờ cao 34,5m được làm tại Hà Nội và vượt gần 600km, trong 10 ngày đêm gian khổ đã có mặt tại giới tuyến. Sau khi dựng xong, trên đỉnh cột cờ treo lá cờ kích cỡ 12x8m.
Theo lời ông Nguyễn Thanh Hà, trên đỉnh lá cờ gắn ngôi sao bằng đồng đường kính 1,2m. Lúc này, lá cờ Tổ quốc đầu cầu giới tuyến luôn tung bay trong niềm vui sướng của bà con hai bờ Nam - Bắc.
Thế nhưng, cuộc chiến vẫn tiếp diễn, Chính quyền bờ Nam khi ấy lại vội vàng tôn cột cờ cao lên 35m. Lần thứ 3 trong lịch sử, phía Bắc cầu Hiền Lương được Chính phủ cho dựng một cột cờ mới kiên cố cao 38,6m, treo lên lá cờ rộng 134m2 được làm bằng vải nhung nặng khoảng 15 kg để người dân đôi bờ dù đứng xa giới tuyến cũng có thể nhìn thấy. Cột cờ được thiết kế cách đỉnh 10m có một cabin để các chiến sĩ công an Hiền Lương có thể đứng thu và treo cờ dễ dàng.
Ông Nguyễn Thanh Hà cho biết, theo quy định, cờ được kéo lên từ 6h30-18h30, nhưng các chiến sĩ của ta kéo lên từ sớm và hạ xuống muộn hơn, vào dịp Tết hay Quốc khánh thì cờ được treo duy trì 24/24 để bà con luôn nhìn thấy lá cờ tung bay.
Đối với các chiến sĩ giới tuyến khi đó, họ không chỉ có nhiệm vụ dựng và bảo vệ cột cờ mà còn phải luôn giữ cho lá cờ thường xuyên tung bay. Họ luôn khắc ghi lời thề bảo vệ lá cờ trong tim, lá cờ còn, Tổ quốc còn, bằng mọi giá phải bảo vệ được cột cờ vĩ tuyến 17.
Chính quyền phía Nam lúc này không còn nâng cao cột cờ nữa dù có đủ điều kiện và phương tiện. Cuộc chiến khẳng định sự thắng thua về quy mô cột cờ giữa hai bờ kết thúc.
Quyết tâm giữ vững cột cờ
Sau nhiều lần nâng cột cờ, năm 1965, cuộc đối đầu hai bên bắt đầu chuyển sang giai đoạn ác liệt nhất. Mục tiêu đầu tiên của chính quyền bờ Nam là hủy diệt ngọn cờ ở bờ Bắc. Bom đạn kẻ thù khiến nhiều lá cờ của ta bị rách và cột cờ bị gãy đổ.
Nhưng chúng càng đánh phá, thì cuộc chiến đấu bảo vệ, giữ vững ngọn cờ giới tuyến của quân dân ta càng diễn ra hết sức kiên cường và quyết liệt.
Cờ rách thì đem vá, cột cờ gãy thì thay cột cờ mới. Trong những năm tháng chia cắt nước nhà ấy (từ ngày 19/5/1956 - 28/10/1967) các chiến sĩ công an giới tuyến đã treo tổng cộng 267 lá cờ lớn nhỏ, riêng năm 1967 thì thay cột cờ 11 lần và thay lá cờ 42 lần.
Từ năm 1960, việc đi lại nhận và vận chuyển cờ gặp nhiều khó khăn, Ban hậu cần Công an Nhân dân vũ trang Vĩnh Linh đề nghị cấp một máy may để chủ động việc may, vá cờ.
Trước đó, để hoàn thành một lá cờ hết 122m vải đỏ và 12m vải vàng, người may phải can 10 khổ cờ (8,8x1,2m) vào với nhau, mất 5-6 ngày mới hoàn thành, nhưng sau này, chỉ cần 2-3 ngày là đã hoàn thành.
Việc may cờ lúc đầu được thực hiện ở khu vực Hiền Lương nhưng khi Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, công việc này chuyển về xã Vĩnh Hòa và Vĩnh Trung. Cờ may xong được vận chuyển bằng xe đạp vào đồn công an Hiền Lương.
Cột cờ Hiền Lương ngày nay trở thành nơi tôn vinh chiến thắng lững lẫy năm xưa của dân tộc ta, đồng thời thể hiện niềm kiêu hãnh của người dân Quảng Trị nói riêng và niềm tự hào của đồng bào cả nước nói chung. |
Trong ký ức của phân đội trưởng phân đội 1 Nguyễn Thanh Hà, sự kiện lịch sử đáng nhớ nhất suốt hơn 20 năm chia cắt có lẽ là vào 8/1967. Lúc này, Mỹ dùng máy bay B52 cùng nhiều máy bay ném bom khác bắn phá, đánh sập một nhịp cầu Hiền Lương và cột cờ giới tuyến phía Bắc. Lúc này, các chiến sĩ bảo vệ cột cờ giới tuyến đã anh dũng chiến đấu để lá cờ vẫn tung bay. Trong cuộc chiến ấy, 2 chiến sĩ công an và 11 dân quân Hiền Lương đã hy sinh.
Suốt hơn 20 năm ròng rã ấy, lá cờ chính là niềm kiêu hãnh của đồng bào ta ở cả hai bờ chiến tuyến, là lời hứa về một ngày non sông thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà.
Chiến tranh kết thúc, đất nước thu về một mối, trên những mảnh đất cằn cỗi, chỉ toàn những hố bom, họ - những người chiến sĩ năm xưa kiên cường chống lại mưa bom bão đạn bảo vệ lá cờ Tổ quốc nay lại cùng con cháu lấp đất, dựng nhà, xây dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc như bây giờ. Về thăm vùng đất lửa Quảng Trị, khó ai có thể hình dùng rằng làng quê trù phú trước mắt đã từng là nơi bị mưa bom, bão đạn của kẻ thù.