Ba năm kể từ khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực (1/8/2020-1/8/2023), quan hệ kinh tế - thương mại đã thực sự trở thành “điểm sáng” trong bức tranh hợp tác song phương Việt Nam-EU, với mức tăng trưởng hai con số. Việc Hiệp định được ký kết cũng góp phần khẳng định sự tin tưởng của EU đối với Việt Nam ngày càng tăng. Tuy nhiên, thị phần của hàng hóa Việt trên thị trường liên minh 27 quốc gia thành viên rất khiêm tốn, chỉ chiếm khoảng 2%. Còn nhiều vấn đề đặt ra để doanh nghiệp tận dụng lợi thế của Hiệp định, đưa hàng Việt hiện diện nhiều hơn tại thị trường cao cấp, khó tính nhưng vô cùng tiềm năng này. Nhân dịp 3 năm Hiệp định EVFTA đi vào thực thi, PV Báo Thế giới & Việt Nam có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Nguyễn Thái Chuyên, Giảng viên Kinh doanh quốc tế, Đại học RMIT về hiệu quả của Hiệp định đối với thương mại song phương cũng như khó khăn, thách thức doanh nghiệp gặp phải, những vấn đề đặt ra và hướng khắc phục để thỏa thuận thực sự phát huy hiệu quả, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp Việt Nam. |
Năm 2020, Việt Nam là nước đang phát triển đầu tiên trên thế giới và là nước thứ tư ở châu Á (sau Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore) ký Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Liên minh châu Âu (EU) - EVFTA. Đối với Việt Nam, EVFTA là một trong hai hiệp định (cùng với CPTPP) có độ cam kết và độ mở toàn diện, có trình độ và đẳng cấp cao hơn so với 12 FTA đã ký kết. Vậy theo ông, đâu là điểm ưu việt của EVFTA so với các hiệp định khác? EVFTA cam kết loại bỏ hoặc giảm thuế quan cho hầu hết hàng hóa và dịch vụ giữa Việt Nam và EU, tạo cơ hội lớn cho doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường EU và thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa. EVFTA cũng có quy định rõ ràng về xuất xứ hàng hóa và quy tắc nguồn gốc, đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong thương mại. Điều này tăng sự tin tưởng từ phía EU đối với sản phẩm Việt Nam. Hơn nữa, EVFTA bảo vệ nhà đầu tư và tạo môi trường đầu tư ổn định và an toàn cho các doanh nghiệp. Điều này có thể tạo sự tin tưởng và thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp EU vào Việt Nam. EVFTA cũng mở ra cơ hội hợp tác công nghệ giữa Việt Nam và EU. Việt Nam có thể tiếp cận công nghệ và kiến thức tiên tiến từ EU, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ và phát triển các ngành công nghiệp hiện đại hơn. Cuối cùng, EVFTA không chỉ yêu cầu cải tổ trong thương mại hàng hóa, mà còn tác động đến nhiều lĩnh vực khác như đầu tư, dịch vụ, bảo vệ sở hữu trí tuệ, giảm thủ tục hải quan, bảo vệ môi trường, ngăn chặn vai trò của các công ty quốc doanh, mua sắm của chính phủ và giải quyết tranh chấp. Những điều này tạo ra sự thay đổi toàn diện và nâng cao chất lượng kinh doanh và môi trường kinh doanh tại Việt Nam. |
Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh cùng Bộ trưởng Bộ Môi trường kinh doanh, Thương mại và doanh nghiệp Romania, Đại diện Hội đồng EU Stefan-Radu Oprea và bà Cecilia Malmstrom, Cao ủy Thương mại EU, ký Hiệp định EVFTA, tại Hà Nội, ngày 30/6/2019. (Nguồn: VGP) |
Với những ưu việt trên, khi EVFTA được ký kết, người ta đã nhận định đây là “đường cao tốc” để hàng Việt chinh phục thị trường EU vốn khó tính nhưng vô cùng tiềm năng. Đến giờ, sau 3 năm Hiệp định đi vào thực thi (1/8/2020-1/8/2023), ông đánh giá như thế nào về nhận định trên? Sau gần 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU đã có sự tăng trưởng nhất định, với mức 14,2% năm 2021 và 16,7% năm 2022. Tuy nhiên, thị phần của hàng hóa Việt trên thị trường EU chỉ chiếm khoảng 2%. Giá trị và lợi ích mà các doanh nghiệp Việt Nam thu được từ hoạt động xuất khẩu vẫn còn hạn chế do thương hiệu Việt Nam chưa được biết đến rộng rãi tại các nước châu Âu. Mặc dù một số doanh nghiệp đã tham gia vào việc chế biến và nâng cao chất lượng sản phẩm để xuất khẩu sang EU, nhưng hầu hết vẫn chỉ là gia công hàng hóa cho các đối tác nước ngoài. Châu Âu là một thị trường khó tính với tiêu chuẩn hàng hoá rất khắt khe, vì vậy doanh nghiệp Việt Nam muốn tiếp cận thị trường này cần phải có nỗ lực thay đổi, thích ứng và được hỗ trợ từ các cơ quan quản lý. Lợi thế từ EVFTA sẽ trở nên ít quan trọng hơn khi các đối thủ trong khu vực Đông Nam Á như Malaysia và Thái Lan đang tiến tới ký kết FTA với EU.
|
Là chuyên gia về lĩnh vực này, theo ông, sau 3 năm có hiệu lực, EVFTA đã mang lại những thành quả nổi bật như thế nào cho tăng trưởng GDP nói chung và xuất khẩu nói riêng của Việt Nam vào EU? Diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 trong hai năm 2020 và 2021 đã cản trở sự phục hồi của kinh tế thế giới. Việt Nam đã chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch bệnh, khiến tăng trưởng kinh tế năm 2021 chỉ đạt mức 2,6%. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU năm 2021 đạt 40,12 tỷ USD, tăng trưởng 14,2%. Đây là kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh kinh tế khu vực EU đang gặp phải sự suy giảm nghiêm trọng và vẫn phải đối mặt với diễn biến phức tạp của đại dịch. Trong năm 2022, tăng trưởng GDP của Việt Nam đã vượt qua con số 8% lần đầu tiên sau nhiều thập niên. Không thể phủ nhận những thành quả từ quá trình phục hồi kinh tế của Việt Nam, mặc dù tỷ lệ tăng trưởng trên là so với mức nền thấp của năm 2021. Kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU năm 2022 đã cán mức 46,83 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm trước đó và góp phần vào sự tăng trưởng GDP mạnh mẽ của Việt Nam. Tuy nhiên, tình hình kinh tế thế giới tiếp tục đối mặt với nhiều biến động không ổn như lạm phát khiến tổng GDP quý I/2023 chỉ tăng 3,32% so với cùng kỳ năm trước, trong khi kim ngạch xuất khẩu vào EU đạt hơn 10,4 tỷ USD, giảm gần 9% so với cùng kỳ năm trước. Do đó, để đạt được mục tiêu đã đề ra trong năm 2023, đòi hỏi sự nỗ lực và cố gắng rất lớn, cần có sự phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan và đặc biệt là sự đồng lòng từ các địa phương, hiệp hội ngành hàng và các doanh nghiệp. EVFTA bao trùm nhiều lĩnh vực hàng hóa với lộ trình ưu đãi thuế quan được cho là mang lại lợi thế cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Theo ông, những mặt hàng nào của nước ta đã tận dụng được tương đối những ưu đãi đó? Bên cạnh đó, còn lĩnh vực nào chưa được như kỳ vọng? Trong gần 3 năm kể từ khi EVFTA được thực thi, đã có nhiều mặt hàng khá thành công trong việc tận dụng các ưu đãi từ Hiệp định. Các mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD vào thị trường EU hàng năm trong suốt 3 năm qua bao gồm điện thoại và linh kiện, máy vi tính, giày dép, máy móc thiết bị phụ tùng, hàng dệt may, cà phê, sắt thép và hải sản. Hầu hết các mặt hàng này đã có mức tăng trưởng đáng kể, đặc biệt là sắt thép với mức tăng trưởng vượt qua 844% trong năm 2021 so với năm 2020 và hơn 634% trong năm 2022 so với năm 2020.
Tuy nhiên, mặt hàng điện thoại và linh kiện đã ghi nhận sự giảm sút lần lượt là 9,5% vào năm 2021 và 15,7% vào năm 2022 so với năm trước đó. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu nguyên liệu đầu vào do thị trường Trung Quốc đóng cửa vì dịch bệnh Covid-19 và căng thẳng giữa Nga và Ukraine gây khủng hoảng chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy vậy, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vẫn chưa đạt được như kỳ vọng. Rau củ quả, thủy sản và gạo là một vài ví dụ. Mặc dù có mức tăng trưởng khá tốt, nhưng những mặt hàng này hiện tại chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng giá trị nhập khẩu của EU đối với các mặt hàng đó. Mặt hàng thủy sản vẫn chưa gỡ được thẻ vàng IUU từ Ủy ban châu Âu (EC), dẫn đến khó khăn nhiều mặt cho mặt hàng này. Do đó, vẫn còn dư địa lớn để Việt Nam xuất khẩu những mặt hàng này sang EU. Ngoài ra, có một số mặt hàng chưa có dấu hiệu tăng trưởng sau khi Hiệp định được thực thi, chẳng hạn như giấy và các sản phẩm từ giấy cùng với hạt điều. Với những kết quả đó, theo ông, bài học quý giá nhất mà doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nhận được là gì? Để đạt được những kết quả tốt hơn, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần tăng cường nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, học hỏi và áp dụng các tiêu chuẩn an toàn và bảo vệ môi trường cao mà EU yêu cầu. Đồng thời, các doanh nghiệp cần cải thiện quy trình quản lý, áp dụng các công nghệ mới và tăng cường khả năng đào tạo và phát triển nhân lực để thích ứng với một thị trường khó tính như EU. Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam cần mở rộng đối tác và khách hàng mới, đa dạng hóa nguồn tiêu thụ và giảm thiểu rủi ro từ việc phụ thuộc vào một thị trường xuất khẩu duy nhất.
|
Bên cạnh đó, sau 3 năm triển khai, những khó khăn, thách thức trên thực tế mà số đông doanh nghiệp Việt Nam giao thương với thị trường EU gặp phải là gì? Nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tuân thủ các quy định về xuất xứ hàng hóa và quy tắc nguồn gốc. Đối với các ngành hàng nông nghiệp, lâm sản, các nhà khai thác và thương nhân phải chứng minh rằng sản phẩm hợp pháp và không vi phạm quy định về phá rừng. Tuy nhiên, Việt Nam chưa có hệ thống xuất xứ từ nông hộ và từng khu vực trồng trọt để có thể chứng minh với thị trường EU. Hơn nữa, gần 6 năm nay, thủy sản Việt Nam bị EC áp thẻ vàng IUU vì các hành vi khai thác bất hợp pháp làm cho xuất khẩu thuỷ sản gặp khó khăn. Thủy sản là ngành được ưu đãi nhất về thuế, nhưng cơ hội này sẽ không được tận dụng triệt để nếu không gỡ được thẻ vàng IUU. Ngoài ra, EU là một thị trường khắt khe có tiêu chuẩn chất lượng nghiêm ngặt, yêu cầu an toàn cho hàng hóa công nghiệp, và các tiêu chuẩn vệ sinh và kiểm dịch cho các sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu và thực phẩm từ nước ngoài. Điều này cũng là một trở ngại khác đối với các doanh nghiệp Việt Nam vì phần lớn nguyên liệu sản xuất hàng hóa được nhập từ Trung Quốc và các nước trong ASEAN, khó kiểm soát về các tiêu chuẩn chất lượng. Mặt khác, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn yếu so với các nước trong khu vực và trên toàn cầu. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU không có thương hiệu riêng hoặc được phân phối thông qua nhãn hiệu nước ngoài. Điều này gây hạn chế trong việc tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời tiềm ẩn rủi ro cao trong hoạt động vận chuyển sản phẩm.
Từ khó khăn đó, doanh nghiệp nước ta cần khắc phục gì? Ông nhận định như thế nào về sự chủ động và tuân thủ của doanh nghiệp Việt trong việc tận dụng các ưu đãi từ Hiệp định cũng như hạn chế tác dụng bất lợi từ thỏa thuận? Doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tiếp thu kiến thức và nâng cao hiểu biết về các tiêu chuẩn và quy định của EU để tận dụng tối đa lợi ích từ hiệp định EVFTA. Hơn nữa, các doanh nghiệp cần tập trung vào việc nâng cao quản lý, chất lượng nhân lực, đổi mới công nghệ nhanh chóng, xây dựng và phát triển thương hiệu, cũng như thiết lập chiến lược kinh doanh dài hạn để đáp ứng nhu cầu và yêu cầu từ thị trường 500 triệu dân này. Ngoài ra, cần tăng cường hợp tác và liên kết giữa các doanh nghiệp, đặc biệt trong khuôn khổ các hiệp hội, bởi đây sẽ là yếu tố trợ lực cần thiết để việc tận dụng các cam kết hội nhập của doanh nghiệp được hiệu quả, an toàn và bền vững hơn. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa đạt được sự tự chủ trong việc tìm hiểu và tận dụng những ưu đãi từ Hiệp định. Theo khảo sát nhận thức của doanh nghiệp đối với EVFTA từ Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), mặc dù gần 94% doanh nghiệp đã nghe nói hoặc biết về EVFTA, nhưng chỉ khoảng 40% trong số đó hiểu tương đối hoặc hiểu rõ về cam kết của Hiệp định này đối với hoạt động kinh doanh của mình. Trong đó, nhóm doanh nghiệp FDI có tỷ lệ hiểu khá rõ hoặc rõ về EVFTA cao nhất (43%). Ngoài ra, các doanh nghiệp vẫn chưa khai thác hết lợi thế từ hiệp định này để mở rộng tiêu thụ sang các quốc gia thành viên khác. Trong 27 quốc gia thành viên của EU, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chỉ giao thương chủ yếu với 5-6 quốc gia, trong khi giao thương với các quốc gia khác vẫn còn rất ít. Ông đánh giá như thế nào về vai trò và sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc đưa Hiệp định tới gần hơn với doanh nghiệp và biến nó thực sự hữu ích với xuất khẩu Việt Nam? Dù các bên đã rất nỗ lực, nhưng theo ông, cơ quan quản lý Nhà nước cần làm gì để thực hiện tốt hơn vai trò của mình? So với các FTA khác, EVFTA được các cơ quan quản lý nhà nước tuyên truyền và phổ biến tốt hơn, đa dạng và hiệu quả hơn tới các doanh nghiệp. Theo khảo sát của VCCI, tỷ lệ doanh nghiệp hiểu tương đối hoặc hiểu rõ về EVFTA cao hơn đáng kể so với các FTA khác. Ngoài ra, gần 41% doanh nghiệp đã từng hưởng những lợi ích cụ thể từ EVFTA trong khi con số này chỉ gần 25% vào năm 2020. Bên cạnh đó, như trên tôi đã nói, kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU đã có sự tăng trưởng nhất định (14,2% vào năm 2021 và 16,7% vào năm 2022). Tuy nhiên, hiện tại, các biện pháp hỗ trợ mới chỉ áp dụng chung cho tất cả các ngành và các doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý Nhà nước cần tập trung cụ thể vào các ngành có mặt hàng chiến lược để tận dụng mọi lợi ích từ Hiệp định này. Đồng thời, cần tạo kết nối giữa tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình thực thi EVFTA, bao gồm các cơ quan từ Trung ương đến địa phương, doanh nghiệp và các hiệp hội nhằm hình thành một chuỗi có sự hỗ trợ lẫn nhau. Ngoài ra, cần xem xét và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đơn giản hóa và cắt giảm các thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu vì nhiều doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn trong thủ tục hành chính liên quan lĩnh vực này.
Đối với người tiêu dùng trong nước, 3 năm qua, Hiệp định đã mang lại lợi ích gì? Về mặt xã hội (như tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo…), Hiệp định có tác động như thế nào đối với Việt Nam? Với việc thuế nhập khẩu cho nhiều sản phẩm từ châu Âu vào Việt Nam đang giảm theo lộ trình đến 0% sau khi EVFTA có hiệu lực, người tiêu dùng trong nước có cơ hội tiếp cận với nhiều sản phẩm hàng hóa đa dạng và chất lượng cao từ châu âu với giá thành hợp lý hơn. Giá nhiều sản phẩm nông sản từ châu Âu như rau củ quả, sữa và ngũ cốc đã giảm, nhận được phản hồi tích cực từ người tiêu dùng. Ngoài ra, giá nhập khẩu nhiều mặt hàng như máy móc, thiết bị từ châu âu bắt đầu giảm theo lộ trình cũng giúp các doanh nghiệp nâng cao quá trình sản xuất và tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng cao. EVFTA cũng có tác động quan trọng đến Việt Nam về mặt lợi ích xã hội. Các ngành hàng có lợi thế xuất khẩu sang EU như dệt may, da giày và lĩnh vực vận chuyển đã tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động Việt Nam. Đồng thời, kim ngạch xuất khẩu sang châu âu nói chung đã có sự tăng trưởng sau khi Hiệp định được áp dụng, góp phần cải thiện thu nhập và tạo ra việc làm ổn định và bền vững hơn cho người lao động. Hơn nữa, người lao động cũng có cơ hội nâng cao trình độ chuyên môn của mình để đáp ứng các yêu cầu mới từ EVFTA. Ông nhận định như thế nào về dư địa để doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU? Là chuyên gia trong lĩnh vực này, ông có lời khuyên/gợi ý gì cho doanh nghiệp Việt Nam để tận dụng tối ưu lợi ích của Hiệp định và giảm thiểu thách thức? Nhìn chung, dư địa và cơ hội từ thị trường EU vẫn rất lớn. Nhiều doanh nghiệp chỉ mới tập trung giao thương với 5-6 nước trên tổng số 27 nước thành viên của EU. Mặc dù nhiều mặt hàng có tỷ lệ tận dụng ưu đãi cao từ EVFTA như thủy sản hay rau củ quả nhưng giá trị xuất khẩu vẫn còn khiêm tốn. Việt Nam chỉ xếp thứ 50 trong số các thị trường cung cấp rau củ quả cho EU năm 2022, chiếm khoảng 0,2% tổng giá trị nhập khẩu mặt hàng này của EU. Việt Nam cũng cần nỗ lực trong việc gỡ bỏ thẻ vàng IUU để giúp cho xuất khẩu thuỷ sản sang châu âu cải thiện đáng kể hơn. Để tận dụng tối ưu lợi ích từ Hiệp định và giảm thiểu thách thức, các doanh nghiệp cần tăng cường kết nối trong chuỗi cung ứng, bám theo xu thế tiêu dùng và tăng cường khả năng sáng tạo; đồng thời áp dụng các giải pháp đi kèm và tương tác trực tiếp, liên tục, nhanh chóng với khách hàng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần nắm vững pháp lý, thiết lập liên kết với các cơ quan quản lý và tư vấn từ các chuyên gia để nhận được sự hỗ trợ. Ngoài ra, việc kết nối giữa các doanh nghiệp cũng là điều cần thiết để tạo nên sức mạnh và tiết kiệm chi phí, đồng thời tránh được rủi ro từ thị trường nước ngoài. |
|
|
|
Theo EVFTA, EU cam kết xóa bỏ tới 85,6% dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực (1/8/2020) và 99,2% số dòng thuế được xóa bỏ sau 7 năm. Như vậy, đến cuối lộ trình, gần như toàn bộ sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được xóa bỏ hoàn toàn thuế quan. Với lộ trình cắt giảm thuế quan ngắn như vậy, Việt Nam cần có những giải pháp căn cơ và thực chất gì để giúp doanh nghiệp nhanh chóng tận dụng ưu đãi và tăng tính bền vững khi xuất khẩu vào thị trường này? Thay vì tuyên truyền thông tin chung về Hiệp định cho tất cả các ngành nghề, cơ quan Nhà nước cần đưa ra các biện pháp hỗ trợ cụ thể, chính xác và cập nhật theo nhu cầu của từng ngành nghề. Ngoài ra, cần tận dụng thông tin thị trường từ mạng lưới các cơ quan xúc tiến thương mại Việt Nam ở nước ngoài để giới thiệu cho doanh nghiệp trong nước về các cơ hội xuất khẩu, nhập khẩu với các thị trường cụ thể trong khối EU. Hơn nữa, cơ quan Nhà nước cần tổ chức các chương trình hỗ trợ cải thiện năng lực cạnh tranh, tập trung vào các vấn đề ưu tiên của doanh nghiệp như nâng cao chất lượng sản phẩm, đào tạo kỹ năng quản lý cho lãnh đạo và chuyên môn cho người lao động, và cải thiện công nghệ. Mặt khác, nên thiết lập các diễn đàn hoặc kênh kết nối đối tác, chắp mối kinh doanh giữa doanh nghiệp ở Việt Nam và đối tác. Doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu các cam kết và tác động của Hiệp định, đồng thời tìm kiếm sự hỗ trợ từ các cơ quan nhà nước, đặc biệt là trong khuôn khổ các chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngoài ra, doanh nghiệp nên ưu tiên tập trung vào các khía cạnh còn yếu thay vì điều chỉnh dàn trải. Đồng thời, tăng cường hợp tác và liên kết giữa các doanh nghiệp, đặc biệt là thông qua các hiệp hội, để chia sẻ kiến thức, kỹ thuật, và mở rộng mạng lưới phân phối, từ đó tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường EU. Xin cảm ơn ông! Thực hiện: Trần Liễu | Đồ họa: Lim Dim | Ảnh: TTXVN, TG&VN... |