Nhỏ Bình thường Lớn

5 loài rùa Việt Nam đang có nguy cơ tuyệt chủng

Ít người biết rằng Việt Nam đang có quần thể rùa biển quý giá bao gồm 5 loài, hiện đang phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng.
5 loai rua viet nam dang co nguy co tuyet chung
Rùa biển ở Côn Đảo (Nguồn: landtourcondao.com)

Đây chính là chia sẻ của bà Nguyễn Diệu Thúy, quản lý chương  trình Bảo tồn Các nguồn lợi Thủy sản của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế tại Việt Nam (WWF-Việt Nam)...

Xin bà cho biết giá trị của các loài rùa biển đối với đa dạng sinh học?

Rùa biển được cho là đã có mặt trên trái đất từ 250 triệu năm trước, là sinh vật trải qua nhiều sinh cảnh và hệ sinh thái khác nhau trong quá trình di cư phát triển và sinh sản, vì vậy mà sự vắng mặt của rùa biển sẽ làm cho đa dạng sinh học nhiều vùng bị suy giảm. Rùa biển được coi là một trong những chỉ số về sự khỏe mạnh của môi trường biển. Trước đây rùa biển được phân bố hầu hết trên các vùng biển của nước ta với mật độ cao. Nhìn vào hộp thông tin về các loài Rùa biển, chúng ta có thể thấy hiện nay cả 5 loài rùa biển của Việt Nam đều suy giảm đáng kể về số lượng.

Bà có thể phân tích một vài nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm này?

Rùa biển hiện đang là nạn nhân của rất nhiều hoạt động của con người, từ việc đánh bắt ngẫu nhiên khi rùa biển vô tình lọt vào lưới và các phương tiện đánh bắt hải sản của người dân, cho đến các hoạt động đánh bắt chủ ý mang tính chất hủy diệt. Không chỉ vậy, việc người dân xả rác thải ra biển làm rùa nhầm với thức ăn, nuốt phải dẫn đến cái chết và các hoạt động phát triển qui mô lớn của con người như xây dựng kè chống xói mòn, các công trình ven biển, khai thác cát ở qui mô tận kiệt đã làm mất các bãi đẻ. Thậm chí, ánh sáng nhân tạo từ các khu du lịch ven biển cũng gây tác động lớn đến các hoạt động đẻ trứng, di chuyển và kiếm ăn của rùa biển. 

Một tổ chức bảo tồn như WWF-Việt Nam đã có những hoạt động như thế nào để bảo vệ và bảo tồn các loài rùa biển của Việt Nam?

Bảo vệ các loài có nguy cơ tuyệt chủng như rùa biển đã được WWF-Việt Nam thực hiện từ những năm 1990, bắt đầu từ Vườn Quốc gia Côn Đảo. Việc bảo tồn rùa biển và bãi đẻ của rùa tại Côn Đảo đã đạt được thành công trong việc đảm bảo tỷ lệ nở cao và tình trạng tốt của các bãi đẻ cũng như các sinh cảnh sống gần bờ của rùa biển. Trong năm 2008-2009, WWF cùng với Vườn quốc gia Côn Đảo triển khai hệ thống gắn thiết bị vệ tinh theo dõi đường di cư của rùa biển từ Côn Đảo. Vườn quốc gia Côn Đảo đã trở thành một phòng thí nghiệm sống cho các khu vực bờ biển khác có rùa đẻ tại Việt Nam.

Từ năm 2007 đến năm 2009, WWF đã phối hợp với Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc (UNEP) và UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xây dựng khu bảo tồn biển Côn Đảo (MPA). Các khu bảo tồn biển là một công cụ hiệu quả để bảo vệ rùa biển và môi trường sống của chúng. Đến nay, Côn Đảo là nơi duy nhất ở Việt Nam rùa biển vẫn đến để làm tổ và số lượng rùa trở lại hàng năm được duy trì.

Các mối đe dọa đối với rùa không chỉ ở bãi đẻ mà còn cả ngoài biển khi chúng di cư và tìm kiếm thức ăn. Một đánh giá của WWF trong năm 2007 đã xác định rằng có khoảng hơn 1.000 con rùa biển bị ảnh hưởng bởi các hoạt động khai thác thuỷ sản hàng năm. Để giảm thiểu những tác động đó, WWF đã có các hoạt động nâng cao nhận thức cho ngư dân về bảo vệ rùa biển, tập huấn cho ngư dân phương pháp cứu hộ rùa gặp phải trong quá trình khai thác thuỷ sản, gửi quan sát viên đi trên tàu của ngư dân để quan sát tác động tới rùa biển và hướng dẫn ngư dân cứu hộ rùa biển. Đối với nghề câu vàng cá ngừ, WWF khuyến khích ngư dân sử dụng lưỡi câu vòng thay thế lưỡi câu thường để giảm tác động tới rùa biển nhưng vẫn duy trì hiệu quả khai thác cá ngừ.

Song song với sự nỗ lực về bảo tồn tại chỗ và giảm thiểu tác động của hoạt động khai thác thuỷ sản lên rùa biển, WWF cũng đã làm việc với các tổ chức khác có cùng mối quan tâm, cộng đồng và các đơn vị quản lý địa phương để giải quyết vấn đề buôn bán rùa biển, đồng thời tăng cường công tác bảo tồn rùa trong cả nước. Kế hoạch Hành động quốc gia về Rùa biển đầu tiên (2005-2010),  và là kế hoạch hành động bảo tồn loài đầu tiên của Việt Nam, đã được phát triển và thực hiện bởi các nỗ lực chung của WWF, IUCN, TRAFFIC và Bộ Thủy sản (nay là Bộ NN&PTNT). Hiện tại Kế hoạch Hành động này đang được Tổng cục Thuỷ sản (Bộ NN&PTNT), IUCN, WWF và các bên liên quan cập nhật cho giai đoạn 2016-2025.

Nhân dịp này bà muốn gửi thông điệp gì đến độc giả?

Trên đây, tôi đã nói về những nỗ lực của chính phủ, các cơ quan có liên quan và của các tổ chức phi chính phủ quốc tế như WWF tham gia vào bảo tồn loài sinh vật quí này. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh rằng hoạt động bảo tồn cần sự góp sức của mọi người dân mới mang lại hiệu quả bền vững. Bạn hãy từ chối việc ăn và sử dụng các sản phẩm từ rùa biển nói riêng, động vật hoang dã nói chung. Như vậy, bạn đã góp phần giảm cầu, mà không có cầu thì sẽ không có cung.

5 TRONG SỐ 7 LOÀI RÙA BIỂN TRÊN THẾ GIỚI ĐƯỢC PHÂN BỐ TẠI VIỆTNAM

Tất cả các loài Rùa biển tại Việt Nam đều được đưa vào IUCN Redlist và Sách Đỏ Việt Nam (danh sách các loài động thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng) ở các cấp độ nguy cấp khác nhau.

Rùa Da (Dermochelys coriacea): Theo ước tính, ở Việt Nam, vào các năm 1960 - 1970, có khoảng 500 rùa mẹ lên các bãi biển làm tổ hàng năm. Đến 2002 chỉ còn 10 rùa mẹ lên làm tổ. Trong suốt thời gian từ năm 2008 đến 2013, chỉ ghi nhận được 01 cá thể rùa da lên đẻ trên bãi Cát Dài tại huyện Cam Lâm (tỉnh Khánh Hòa) và Hải Lăng (Quảng Trị) vào năm 2013. Tại các địa phương khác đã từng có Rùa da lên đẻ như Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên... hoàn toàn không còn dấu vết của rùa da lên bờ làm tổ đẻ trứng.

Rùa Xanh/ Vích (Chelonia mydas): Phân bố rất rộng, ở hầu hết các vùng biển của Việt Nam, theo ước đoán trước thập niên 1970 có khoảng 700 rùa mẹ làm tổ hàng năm, con số này hiện nay giảm xuống còn khoảng 300 con lên đẻ tại 7 khu vực với số lượng trên toàn bộ vùng ven bờ là khu vực Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), Núi Chúa (Ninh Thuận), Bái Tử Long và Cô Tô – Thanh Lân (Quảng Ninh), Hòn Cau (Bình Thuận), Hòn Khô - Hải Giang (Bình Định), Hải Lăng (Quảng Trị) và Hòn Cao Cát (Kiên Giang)

Đồi Mồi (Eretmochelys imbricata): Dọc bờ biển và trên biển của khu vực, hàng năm số Đồi Mồi bị bắt khoảng vài trăm con, thậm chí có thể lên đến hàng nghìn con. Nếu không có hành động bảo vệ ngay lập tức để nghiêm cấm việc đánh bắt có chủ ý và buôn bán Đồi Mồi bất hợp pháp thì chỉ trong vòng một vài thập kỷ nữa Đồi Mồi sẽ biến mất trong khu vực. Trong thời gian từ năm 2008 đến 2013, không còn ghi nhận được bất kỳ cá thể nào lên làm tổ tại các bãi biển của Việt Nam. Các khu vực như Côn Đảo, Cát Bà hoàn toàn không còn loài này lên đẻ trứng từ những năm 2000.

Quản Đồng (Caretta caretta): Không có thông tin chính thức về số lượng quần thể Quản Đồng làm tổ ở Việt Nam, qua các khảo sát đã kết luận Quản Đồng dường như không sinh sản tại Việt Nam từ những năm 1970 (Nguyễn Trường Giang, 2008). Tuy nhiên quản đồng vẫn bị bắt gặp trong quá trình ngư dân khai thác trên biển. Đây là những cá thể sinh sản từ các nước khác trong khu vực.

Đồi Mồi Dứa (Lepidochelys olivacea): Vào đầu thế kỷ 20 loài này có số lượng nhiều nhất Việt Nam (Bourett, 1941). Tuy nhiên đây cũng là loài bị khai thác nhiều để làm thức ăn. Đến năm 2002, số lượng Đồi mồi dứa suy giảm xuống dưới 40 cá thể trong một mùa sinh sản và khu vực có Đồi mồi dứa lên đẻ chỉ còn tại đảo Quan Lạn (Quảng Ninh) và bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) (Hamann et al. 2006). Hiện tại, khu vực bán đảo Sơn Trà đã hoàn toàn không còn dấu vết của Đồi mồi dứa, đặc biệt là sau khi xây dựng con đường chạy xung quanh đảo và các khu nghỉ dưỡng, khách sạn trên các bãi cát chính của bán đảo như bãi Nam, bãi Tre... Đồi mồi chỉ còn được phát hiện tại một số bãi biển không có người sinh sống như hòn Nứt Đất (Quảng Ninh) và bãi biển thuộc tỉnh Quảng Trị, với số lượng rất nhỏ.

 

 

PV. (Theo WWF-Việt Nam)