TIN LIÊN QUAN | |
Goldman Sachs nâng dự báo giá dầu thô năm 2019 | |
Bảo lãnh thông quan, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy giao thương quốc tế |
Ông Mai Xuân Thành - Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan. |
Trao đổi với TG&VN, ông Mai Xuân Thành - Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan cho biết, giải pháp BLTQ dự kiến sẽ được triển khai tại Việt Nam trong thời gian tới.
Hình thức BLTQ tại Việt Nam còn khá mới, vậy đơn giản nhất nên hiểu giải pháp này thế nào thưa ông?
Bảo lãnh thông quan là một hình thức cam kết bảo lãnh về mặt tài chính mà cơ quan hải quan yêu cầu đối với doanh nghiệp xuất khẩu (XK), nhập khẩu (NK) để đảm bảo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về thuế, phí, tuân thủ các quy định về thủ tục hải quan, chính sách quản lý chuyên ngành khi chưa hoàn thành thủ tục hải quan theo quy định, nhưng mong muốn được thông quan, giải phóng hàng hoặc đưa hàng về bảo quản.
Theo đó, để hàng hóa được thông quan, giải phóng hoặc đưa về bảo quản, bên bảo lãnh là các doanh nghiệp tổ chức tín dụng/công ty bảo hiểm đứng ra cam kết với cơ quan hải quan (bên thụ hưởng) về việc thay mặt chủ hàng hóa thực hiện các nghĩa vụ bắt buộc về thủ tục hải quan theo quy định pháp luật (như nộp các khoản thuế, phí, thu khác, chậm nộp chứng từ về quản lý và kiểm tra chuyên ngành.v.v,...) nếu chủ hàng (bên được bảo lãnh) không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về thủ tục hải quan, về thuế hoặc chính sách quản lý chuyên ngành theo quy định.
Vậy lợi ích lớn nhất của BLTQ là gì?
Ngoài giúp cho cơ quan hải quan nâng cao năng lực quản lý, đảm bảo nguồn thu nộp ngân sách, ngăn chặn tình trạng gian lận thương mại, vi phạm pháp luật hải quan, BLTQ là công cụ hỗ trợ cho cơ quan quản lý chuyên ngành trong việc kiểm soát việc tuân thủ các quy định về pháp luật. BLTQ rất có ý nghĩa đối với DN.
BLTQ giúp DN rút ngắn thời gian thông quan, giải phóng hàng, giảm chi phí, sớm đưa hàng hóa vào sản xuất, có thêm sự lựa chọn đơn vị bảo lãnh nộp thuế ngoài các ngân hàng thương mại như hiện nay, đồng thời cũng góp phần nâng cao tính tự giác tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp. Đối với các tổ chức kinh doanh bảo hiểm, bảo lãnh thông quan sẽ bổ sung một phương thức kinh doanh mới, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh, phát triển thị trường bảo hiểm tại Việt Nam.
Các chuyên gia Mỹ đánh giá, bảo lãnh thông quan sẽ giảm chi phí hành chính từ 0,1-0,5%, giảm chi phí thông quan từ 0,5-0,8% trị giá lô hàng, tăng cạnh tranh, thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu khoảng 1%.
Được biết, BLTQ đã được các nước áp dụng từ nhiều năm, ông có thể chia sẻ về việc này?
Đúng vậy, ngày càng nhiều quốc gia công nhận BLTQ là một biện pháp tạo thuận lợi thương mại hiệu quả và giải pháp này từ lâu đã được đưa vào Hiệp định thương mại quốc tế với các tên gọi khác nhau như “cam kết bảo lãnh”, “công cụ đảm bảo” hay “khoản đảm bảo”.
Bảo lãnh thông quan tốt sẽ giúp tăng giá trị lô hàng, tăng cạnh tranh, thúc đẩy xuất khẩu. (Nguồn: Econews) |
Tại Canada, từ năm 1867, người ta đã sử dụng bảo lãnh thuế quan như là một công cụ để kiểm soát ngăn chặn buôn lậu và đảm bảo tính tuân thủ của các đối tượng tham gia. Hàn Quốc cũng có bảo lãnh liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, tuy nhiên chỉ triển khai bảo lãnh để đảm bảo thanh toán thuế, phí và không yêu cầu bảo lãnh trong lĩnh vực quản lý chuyên ngành khác. Ở Thái Lan, bảo lãnh thông quan chỉ là một chứng thư bảo lãnh ngân hàng có tên gọi là Hợp đồng đảm bảo, chỉ dùng để đảm bảo thanh toán thuế và phí.
Đặc biệt, tại Mỹ, qua gần 80 năm áp dụng, Hệ thống bảo lãnh thông quan ngày nay được xem là hệ thống tiên tiến nhất, không chỉ bảo lãnh về thuế phí mà còn bảo lãnh tất cả nghĩa vụ chuyên ngành khác liên quan áp dụng trên lô hàng. Tất cả lô hàng nhập khẩu thương mại có trị giá từ 2,500 USD trở lên khi nhập khẩu đều phải có bảo lãnh thông quan hoặc một hình thức đảm bảo phù hợp khác.
Như vậy, từ yêu cầu thực tế của quá trình hội nhập và từ kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam sẽ triển khai giải pháp BLTQ này như thế nào, thưa ông?
Thực hiện Quyết định số 1254/QĐ-TTg ngày 26/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt Kế hoạch hành động thúc đẩy Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN, cải cách công tác kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa XNK và tạo thuận lợi thương mại giai đoạn 2018 - 2020”, Tổng cục Hải quan đã đề xuất Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ xây dựng Đề án về việc thực hiện thí điểm cơ chế BLTQ đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu.
Để giảm thiểu rủi ro khi áp dụng, việc triển khai cơ chế BLTQ tại Việt Nam dự kiến chia thành 3 giai đoạn: Thí điểm (2021-2022), mở rộng (2022-2023) và chính thức (từ 2024).
Trong giai đoạn đầu triển khai thí điểm, sẽ lựa chọn áp dụng cơ chế bảo lãnh đối với một số loại hình trên cơ sở kế thừa các hình thức bảo lãnh đã được áp dụng và thí điểm áp dụng đối với một số loại hình mới, đồng thời mở rộng đối tượng tham gia vào hoạt động bảo lãnh, như: bảo lãnh nộp thuế, hàng quá cảnh, hàng kinh doanh tạm nhập, tái xuất, bảo lãnh cho việc chậm nộp Giấy chứng nhận xuất xứ, bảo lãnh cho việc đưa hàng hóa về bảo quản.
Việc triển khai mở rộng các loại hình có thể được áp dụng ngay trong giai đoạn thí điểm hoặc sau khi tổ chức sơ kết, đánh giá hoạt động trong giai đoạn thí điểm, việc mở rộng thí điểm dự kiến áp dụng BLTQ đối với các loại hình tạm nhập tái xuất khác (như: tham dự hội chợ triển lãm, sửa chữa bảo dưỡng, bảo hành…); bảo lãnh cho đưa về bảo quản để chờ cấp giấy phép nhập khẩu; bảo lãnh trong các trường hợp có tranh chấp trong việc áp dụng chính sách quản lý, chính sách thuế giữa cơ quan quản lý nhà nước và DN...
Trên cơ sở tổ chức đánh giá tình hình triển khai thí điểm trong 2 giai đoạn nêu trên, Nhóm nghiên cứu sẽ hoàn thiện cơ sở pháp lý và hệ thống công nghệ thông tin để triển khai chính thức Hệ thống BLTQ đối với hàng hóa XNK của các loại hình khác, như: gia công, chế xuất, sản xuất xuất khẩu và các trường hợp hàng hóa là nguyên liệu nhập khẩu để trực tiếp phục vụ sản xuất thuộc diện miễn áp dụng các chính sách quản lý tại khâu nhập khẩu, nhưng phải quản lý sau khi sản xuất thành sản phẩm và trước khi đưa ra lưu thông trên thị trường, cũng như các loại hình hàng hóa XNK khác.
Và khi triển khai BLTQ, cần lưu ý những gì?
Để triển khai được cơ chế BLTQ, trước hết phải có căn cứ pháp luật, đồng thời phải xây dựng hệ thống công nghệ thông tin có kết nối giữa doanh nghiệp XNK, tổ chức bảo hiểm và cơ quan hải quan để thuận tiện trong quá trình thực hiện. Ngoài ra, việc thực hiện cơ chế BLTQ cũng có thể làm phát sinh các quy định về điều kiện, thủ tục công nhận tổ chức kinh doanh dịch vụ bảo hiểm được tham gia hoạt động BLTQ và phát sinh một số chứng từ trong quá trình giải quyết thủ tục thông quan hàng hóa của cơ quan hải quan. Đối với chủ hàng có thể phát sinh một số chi phí liên quan đến việc thực hiện hợp đồng BLTQ với tổ chức kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm các nước thì chi phí tăng thêm nhỏ hơn lợi ích mà doanh nghiệp thu được, đây chính là vấn đề cốt lõi để hệ thống BLTQ phát triển.
Xin cảm ơn ông!
| Doanh nghiệp phải đổi mới sáng tạo, bắt nhịp xu hướng chuyển đổi số Tại Diễn đàn CEO 2019, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ nhấn mạnh: “Không thể chậm trễ hơn, các doanh nghiệp phải xác định đổi ... |
| Vinh danh các Thương hiệu mạnh Việt Nam 2018 Lễ trao giải diễn ra trong khuôn khổ Chương trình thường niên lần thứ 18 Liên hoan các Doanh nghiệp Rồng Vàng & Thương hiệu ... |
| Lực đẩy nào cho cổ phần hóa? Việt Nam đã tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp được 18 năm, kể từ khi có Nghị quyết TW 3 khóa IX năm 2001, ... |