Nhỏ Bình thường Lớn

Chuyện đời thường Bác Hồ

“May mắn lớn nhất trong cuộc đời tôi là được ở bên Bác Hồ. Trong khoảng thời gian gần 10 năm ấy, tôi đã học và thấm nhuần đạo đức của Người. Tôi hiểu thế nào là Cần – Kiệm – Liêm – Chính – Chí công vô tư” - ông Hoàng Tấn Quang, thôn Tân Hồng, thị trấn Nông Trường, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang đã mở đầu câu chuyện như vậy.
Báu vật nhà của ông Quang là cây bưởi được lấy giống từ vườn Bác về.

Niềm vinh dự lớn lao

Ngôi nhà ông Quang ở tuềnh toàng, ngoài chiếc giường ra chỉ có một cái bàn đã cụt chân để tiếp khách. Trên bàn thờ gia tiên, vị trí cao nhất ông treo ảnh Bác Hồ, kề bên là một chiếc tủ đứng cũ kỹ được khóa cận thận, trong đó cất giữ những kỷ vật về Bác...

Ông Hoàng Tấn Quang sinh năm 1934 ở Thôn Họa, xã Cấm Sơn, huyện Lục Ngạn. Năm 1956 khi đang làm công tác văn phòng tại Ủy ban xã Cấm Sơn, ông được cử đi công tác tại cụm phát động quần chúng ở Hữu Lũng, Lạng Sơn. Hoàn thành nhiệm vụ, ông được xếp vào diện “cán bộ nguồn” bổ trợ cho miền núi và được cử đi học bổ túc văn hóa. Sau khi tốt nghiệp khóa học, ông được giao phụ trách Đoàn thanh niên, rồi được cử về công tác tại Nông trường cam Bố Hạ. Tại đây, ông được kết nạp vào Đảng.

Đầu năm 1960, văn phòng Phủ Chủ tịch cần người về chăm sóc vườn cam cho Bác Hồ. Tỉnh Hà Bắc đã cử  hai người: ông Ngô Văn Các và ông Hoàng Tấn Quang. Cuối năm 1960 hai ông được giao nhiệm vụ đánh 50 cây cam sành từ nông trường cam Bố Hạ về trồng trong vườn Bác. Sau 2 năm, cây Cam phát triển tốt, cho thu quả. Trong lần tới thăm vườn, Thủ tướng Phạm Văn Đồng hái một quả ăn thử rồi gọi những người trồng cam vào trao đổi: “Không ngọt được như cam sành Bố Hạ vì không hợp đất và khí hậu. Phải phá đi trồng các loại cây ăn quả ngắn ngày khác thôi”. Từ đó ông Các được chuyển sang chăm ao cá, ông Quang được cử làm Cần vụ, thường xuyên chăm lo sinh hoạt cho Bác.

Những kỷ niệm khó quên

Sau 40 năm Bác đi xa, đọng lại trong ký ức của ông Quang là hình ảnh Bác Hồ, người cha già kính yêu đã dạy cho ông nhiều bài học sâu sắc. Ông nghẹn ngào: “Dù vào làm trong vườn Bác từ năm 1960, nhưng Bác bận nhiều việc nên mãi đến năm 1964 tôi mới có cơ hội được trực tiếp nói chuyện với Bác. Vào một buổi chiều khi vừa xong việc, Bác gọi những người cần vụ lên dặn: “Các chú chuẩn bị 2 - 3 cái đèn pin. Tối nay Bác cháu mình đi xem hoa quỳnh”. Đó là lần đầu tiên trong đời ông Quang được chiêm ngưỡng hoa quỳnh nở, nhưng hạnh phúc nhất là được trực tiếp xem cùng Bác trong không khí đầm ấm như những người thân trong gia đình.

Ông Quang nhớ như in lời Bác dặn trong lúc chiêm ngưỡng hoa: “Các chú trồng cây phải biết tên cây”. Bác không chỉ yêu thiên nhiên, gần gũi hòa đồng với mọi người, mà qua việc nhật xét về người trồng cây, ngẫm lại câu nói của Người thấy chứa đựng biết bao bài học sâu sắc.

Lần khác, khi tôi vừa dọn xong giường ngủ cho Bác, đang bước xuống cầu thang thì Bác về. Bác bảo: “Chú Quang quay lại Bác nhờ một tí”. Lúc đó tôi thấy lo lắng vì không biết mình có làm gì sai để Bác phật lòng không? Bác đưa cho tôi một cái đĩa con nhờ ra vườn lấy ít hoa ngọc lan và hoa ngâu để vào trong phòng. Bác dặn: “Chú nhớ lấy ít thôi! Để còn dành hoa cho người khác nữa”.

Sự giản dị, tiết kiệm còn thể hiện ở từng chi tiết nhỏ trong sinh hoạt hàng ngày của Bác. Thỉnh thoảng Bác lại ăn cơm cùng mọi người trong văn phòng. Ông Quang nhớ lại bữa cơm đầu tiên ăn cùng Bác là vào một buổi trưa. Ngay từ sáng sớm, Bác đã bảo anh em cấp dưỡng: “Trưa nay các chú nấu cơm cho Bác và tất cả anh em cùng ăn. Nhưng nhớ là nấu ít thôi, ăn không hết phí lắm!”. Trước bữa ăn, Bác lại động viên: “Chú Cần đã có công nấu ra đây, Bác cháu ta phải ăn cho hết”.

Cũng có nhiều lần ông Quang không thực hiện được những việc Bác nhờ. Đó là lần Bác gọi ông vào phòng, rút cái chiếu ở dưới gầm giường ra nhờ ông mang về vá. Nhìn cái chiếu bị rạn, có nhiều chỗ rách, ông Quang đành mang đến hỏi ý kiến mọi người trong văn phòng. Tuy nhiên, không ai đưa ra được giải pháp vì không thể vá được chiếu, mua mới thì sẽ bị Bác phê bình. Vì thế, ông Quang tìm cách lảng đi, mong sao Bác sẽ quên. Nhưng vài ngày sau, Bác hỏi: “Chú vá chiếu cho Bác xong chưa...”? khiến ông Quang bối rối và đến tận bây giờ ông vẫn cứ áy náy.

Còn chiếc áo nâu Bác mặc nhiều năm đã sờn vai và rách một miếng to ở ngực. Ông Quang nhớ lúc đó Bác nói với ông Vũ Kỳ: “Nghe nói vợ chú rất khéo tay, chú mang chiếc áo này về nhờ cô vá hộ Bác”. Ông Vũ Kỳ bàn với mọi người và nghĩ ra cách đặt may 4 cái áo mới mang lên cho Bác và nói “Cơ sở tặng Bác”. Những tưởng sẽ yên tâm, nhưng mọi người vẫn bị Bác nhắc nhở: “Các chú lấy của cơ sở nhiều thế, phải để cho người khác nữa chứ”. Vậy là bác yêu cầu mang trả lại 2 chiếc.

Chuyện về đôi dép cao su của Bác cũng có nhiều điều thú vị. Mọi người thấy đôi dép đã mòn đến 5cm nên đề nghị thay đôi mới. Bác nói “vẫn còn tốt chán”. Mãi tới khi ông Quang thấy những đôi tất của Bác bị rách một lỗ tròn ở gót mới phát hiện “thủ phạm” chính là đôi dép cao su mòn kia làm rách tất. Tới khi không thể sử dụng được nữa Bác mới đồng ý thay đôi mới.

Vào những năm 1966-1967, chiến trường miền Nam diễn ra căng thẳng, miền Bắc bị mất mùa, để có đủ lương thực tiếp viện cho tiền tuyến, Bác ra lời kêu gọi, động viên đồng bào cả nước tiết kiệm lương thực. Bác nói với nhà bếp nấu cháo ngô cho Bác một tuần. Mỗi khi bê cháo lên cho Bác, nhìn bát cháo ngô lõng bõng nước, ông Quang lại nghẹn ngào. Đặt bát cháo lên bàn, ông nói: Thưa Bác, Bác già rồi, ăn uống có được bao nhiêu đâu. Bác cứ ăn cháo thế này làm sao đủ sức để làm việc. Nhưng Bác vẫn giữ nguyên quyết định: “Bác là người đề xuớng ra chủ trương thì Bác phải thực hiện trước”. Và cả tuần đó bác chỉ ăn cháo ngô.

Không chỉ hiểu hết hoàn cảnh của từng anh em trong văn phòng, Bác còn thường xuyên quan tâm, lo lắng cho mọi người. Mỗi khi trời nắng, Bác nhắc mọi người không được làm quá muộn, trời mưa thì Bác động viên anh em nếu thấy việc không gấp thì không cần phải làm ngay. Một lần, tôi mang cơm cho Bác nhưng quên không đội mũ sắt, Bác gọi lại nhắc nhở: “Chú nhớ lần sau mỗi khi ra ngoài phải đội mũ cẩn thận. Địch thường xuyên ném bom, không may những mảnh đạn bay vào đầu rất nguy hiểm”... Hàng năm, cứ vào dịp tết Bác lại cùng anh em quây quần bóc bánh trưng đón xuân và gửi thiệp chúc mừng đến từng người.

Ngày Bác về cõi vĩnh hằng, ông Quang là người trẻ nhất được túc trực bên linh cữu. Vì thương nhớ Bác, trong 3 ngày ông bị sút 6 cân. Văn phòng đề nghị thuyên chuyển mọi người sang bộ phận khác, nhưng ông Quang từ chối, xin về quê vui thú điền viên.

Đến thăm ông những ngày này, chúng tôi được nghe ông kể nhiều câu chuyện đầy xúc động về Bác, xem những đồ vật kỷ niệm về Bác như con dao gọt hoa quả, thìa cà phê, đèn cồn... nay đã trở thành những vật dụng vô giá được ông tặng lại Bảo tàng Tỉnh. Ông chỉ giữ lại những bức ảnh và những tấm thiệp chúc mừng năm mới có bút tích của Bác. Trên một góc tường, có tấm Bằng khen của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng trao tặng ông, với dòng chữ: “Đã tận tụy hoàn thành nhiệm vụ phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người còn sống”. Ở tuổi già, ông Quang tìm thấy niềm vui mỗi khi có người tới cùng ông ôn lại những kỷ niệm về Bác Hồ. Đặc biệt là các em nhỏ, vừa kể chuyện về Bác, ông vừa nhắc nhở các cháu phải luôn học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người.

Thanh Xuân