![]() |
| Ảnh minh họa. |
Theo tác giả James Nathan trong một bài viết trên trang Mạng lưới lãnh đạo châu Âu (European Leadership Network), 45 năm sau cuộc khủng hoảng, tại một hội nghị ở Princeton, những cố vấn cho Tổng thống Mỹ hồi đó là Theodore Sorenson và McGeorge Bundy vẫn tự chúc mừng nhau vì thời gian đã minh chứng cho những quyết định sáng suốt của họ. Việc khơi lại những sự kiện xảy ra lâu như vậy đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu "đắt hàng" của vô số học viện. Việc phát hành những cuốn băng đầy đủ về Khủng hoảng tên lửa Cuba của Nhà Trắng gần đây đã cho thấy sự quan tâm đặc biệt đến sự kiện này.
Ngoại giao thể hiện vai trò quyết định
30 ngày nổi tiếng, từ khi Mỹ khám phá ra các tên lửa cho đến lúc Liên Xô thông báo việc họ chuyển tên lửa khỏi Cuba, đã được tận dụng để thương lượng và đàm phán ngoại giao, chứ không phải chỉ 13 ngày như tài liệu trước nay vẫn ghi nhận (từ 14-28/10/1962).
Cuộc khủng hoảng đã kết thúc bằng một thỏa thuận: người Mỹ sẽ chuyển tên lửa ra khỏi Thổ Nhĩ Kỳ trong vòng sáu tháng và hứa sẽ không xâm chiếm Cuba, còn Liên Xô sẽ rút vũ khí hạt nhân của họ ra khỏi Cuba. Việc Mỹ đồng ý đưa tên lửa ra khỏi Thổ Nhĩ Kỳ đã được giữ bí mật 17 năm, không chỉ với công chúng mà còn cả với đội ngũ an ninh quốc gia.
Cuộc khủng hoảng Cuba cho thấy tầm quan trọng của hoạt động ngoại giao trong hoàn cảnh hết sức căng thẳng, các nhà ngoại giao và các nhân viên tình báo đã nỗ lực hết sức để thiết lập niềm tin từ hai phía. Với Mỹ, cuộc Khủng hoảng Cuba đã cải thiện vai trò của ngoại giao Mỹ, vốn bị đánh giá thấp một thời gian dài trong mắt người Mỹ, từ những thất vọng ở Hiệp định Munich năm 1938 cho tới Hội nghị Yalta 1945...
Ngoài ra, có nhiều nhân tố khác cũng giúp cho việc tìm kiếm thỏa hiệp đi đến kết quả. Những điều tốt đẹp của mối liên minh trong Thế chiến II, khi Liên Xô và Mỹ cùng sát cánh chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít. Năm 1958, hiệp định Lacy-Zarubin đã mang tới những hoạt động trao đổi văn hóa và khoa học sôi nổi giữa hai nước, kể cả những thành công vang dội của Công ty Khiêu vũ Moiseyev của Nga với nhiều tour diễn vòng quanh nước Mỹ. Nhờ những bước khởi đầu này, người Nga và Mỹ đã nhìn nhận nhau như những người sáng tạo và có giáo dục. Hơn nữa, những nhân vật lãnh đạo đầy thuyết phục với những nét tính cách đặc biệt của Liên Xô như Nhà lãnh đạo Đảng Nikita Khrushchev và Tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã thêm "gia vị" vào quá trình đưa ra quyết định.
Thỏa hiệp... để thay đổi lịch sử
Ngày nay, khi thế giới đang trải qua một trong những giai đoạn mở rộng và đan xen sâu sắc nhất về các mối quan hệ quốc tế, cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba còn giúp ta hiểu được một số vấn đề quan trọng, đặc biệt là việc thoát khỏi "một khả năng chắc chắn sẽ xảy ra trong lịch sử", tác giả Ivan Kurilla cho biết trong một bài viết đăng trên The Moscow Time hồi cuối tháng 10.
Câu chuyện về cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba là câu chuyện về thế giới, khi ở bên bờ vực chiến tranh hạt nhân, và những điều đã được thực hiện để ngăn cản cuộc chiến đó. Đó là câu chuyện đáng để ôn lại bởi tính chất lịch sử của những quyết định chính trị nhằm chấm dứt vòng luẩn quẩn của những cuộc leo thang vũ trang không ngừng.
Quay trở lại những ngày tháng 10/1962 căng thẳng, khi các nhà lãnh đạo chính trị thấy dường như không có cách nào để thoát khỏi sự leo thang của cuộc khủng hoảng. Khi cả hai bên đều chịu sức ép từ những thái độ kiên định của các phe từ cả chính phủ và quân đội. Chiến tranh dường như là điều không thể tránh khỏi.
Nhưng mọi thứ đã thay đổi. Chẳng có gì là quá khi nói rằng lịch sử loài người đã đổi hướng kể từ tháng 10/1962. Chiến tranh đã không nổ ra, vì vậy ngày nay tuy chúng ta đang sống trong một thế giới chưa hoàn hảo nhưng cũng không phải được xây dựng từ tro bụi của một cuộc chiến hủy diệt khác. Rõ ràng, sự thỏa hiệp về Cuba đã là một nước cờ thông minh đối với cả hai bên, cho dù, đó là lúc cả hai cường quốc thế giới Liên Xô và Mỹ cùng sở hữu những kho dự trữ vũ khí hạt nhân khổng lồ - đã sẵn sàng để "nhấn nút".
Những nỗ lực sau đó nhằm cải thiện mối quan hệ giữa hai cường quốc là kết quả tốt đẹp từ cách tư duy mới như vậy. Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962 đã cho những thế hệ sau này một ví dụ về việc phá vỡ "một nguy cơ khó tránh trong lịch sử".
Ngày nay thế giới đã trở nên đa cực. Các mối quan hệ quốc tế tác động lẫn nhau ngày càng mạnh mẽ. Chiến tranh Lạnh đã chấm dứt nhưng không phải không tiềm tàng nguy cơ.
Theo tác giả Ivan Kurilla, thế hệ lãnh đạo của thế giới ngày nay không có kinh nghiệm cá nhân về mối quan hệ ngoại giao bên bờ vực chiến tranh và sự thoát khỏi xung đột quân sự thành công giữa các thế lực lớn, vốn được nhận thấy trong cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba.
Nguy cơ tiềm ẩn trong việc những nhà lãnh đạo ngày nay có thể quên đi hoặc hiểu sai về những thành tựu ngoại giao chủ yếu của các nhà lãnh đạo chính trị cách đây nửa thế kỷ. Và do vậy, họ có thể lặp lại những sai lầm của các thế hệ trước đã dẫn tới hai cuộc chiến tranh thế giới.
Theo Ivan Kurilla, lịch sử vẫn mở rộng đón những thành tựu cũng như sai lầm của các quyết định. Dù đã không có cái gọi là "điều không thể tránh khỏi của lịch sử", nhưng nếu là một nhà lãnh đạo trong thời đại ngày nay, hãy đưa ra những quyết định một cách có trách nhiệm và khôn ngoan.
Đông Nhi (tổng hợp)
| Khủng hoảng tên lửa Cuba (còn gọi là Khủng hoảng tháng 10 tại Cuba) là một cuộc đối đầu giữa Liên Xô, Cuba với Mỹ vào tháng 10/1962. Tháng 9/1962, Chính phủ Cuba và Liên Xô bắt đầu bí mật xây dựng các căn cứ trên đất Cuba cho tên lửa đạn đạo hạt nhân tầm trung có khả năng bắn tới các mục tiêu trên đất Mỹ. Sự việc này xảy ra do phía Liên Xô nắm được thông tin tổng cộng có hơn 100 tên lửa do Mỹ chế tạo và triển khai trên đất Anh, Italy và Thổ Nhĩ Kỳ từ 1958-1961 có khả năng mang đầu đạn hạt nhân tới Liên Xô. Cuộc khủng hoảng nổ ra ngày 14/10/1962, khi phi cơ do thám của Mỹ chụp được bằng chứng cho thấy các căn cứ tên lửa của Liên Xô đang được xây dựng tại Cuba. Đây là một trong các vụ đối đầu chính của Chiến tranh Lạnh và có nguy cơ dẫn tới xung đột hạt nhân. Mỹ đã xem xét đến việc tấn công Cuba bằng không, hải quân và tiến hành "cách ly" Cuba bằng quân sự. Mỹ thông báo rằng họ sẽ không cho phép vũ khí tấn công được gửi đến Cuba và đòi Liên Xô phải tháo bỏ các căn cứ tên lửa đang được xây hay đã xây dựng xong tại Cuba. Về phía Liên Xô, nhà lãnh đạo Nikita Khrushchev viết một lá thư gửi cho Tổng thống Mỹ Kennedy trong đó nói rằng việc Kennedy ra lệnh phong tỏa "giao thông trong vùng biển và không phận quốc tế là một hành động gây hấn đưa con người vào vực thẳm của một cuộc chiến tranh bằng tên lửa hạt nhân toàn cầu". Ngoài mặt, cả Liên Xô lẫn Mỹ đều tỏ ra không nhân nhượng trước những đòi hỏi công khai của nhau, nhưng tại các cuộc tiếp xúc bí mật sau hậu trường họ đưa ra một đề nghị giải quyết cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng kết thúc vào ngày 28/10/1962 khi hai bên đạt đến một thỏa thuận: Liên Xô tháo bỏ các vũ khí tấn công và đưa chúng trở về nước mình dưới giám sát kiểm tra của Liên hợp quốc để đổi lấy việc Mỹ đồng ý sẽ không bao giờ xâm chiếm Cuba và thỏa thuận ngầm là sẽ rút các tên lửa Jupiter của Mỹ khỏi Thổ Nhĩ Kỳ. Liên Xô tháo bỏ các hệ thống tên lửa và các trang bị hỗ trợ đưa trở về Liên Xô. Cuộc phong tỏa chính thức kết thúc lúc 18h45 giờ miền Đông nước Mỹ ngày 20/11/1962. Một phần trong thỏa thuận bí mật là tất cả các tên lửa đạn đạo đã được khai triển ở châu Âu phải bị tháo dỡ trước tháng 9/1963. Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đã khai sinh ra thỏa hiệp đường dây nóng (hotline agreement) và đường dây nóng Moscow-Washington, một đường dây thông tin liên lạc trực tiếp giữa các nhà lãnh đạo hai cường quốc hàng đầu thế giới lúc bấy giờ. (Nguồn: INTERNET) |
