📞
Sắp xếp lại giang sơn, vươn mình ra biển lớn:

Bài 2 - Bước đi chiến lược thể hiện tầm nhìn cải cách, khát vọng vươn lên mạnh mẽ của quốc gia

Yến Nguyệt 09:00 | 01/08/2025
Sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành thể hiện khát vọng vươn lên mạnh mẽ của quốc gia. Việc hình thành các "siêu tỉnh" có quy mô đủ lớn sẽ là tiền đề để thu hút đầu tư chiến lược, phát triển các trung tâm đô thị, giáo dục, nghiên cứu – những trụ cột cho phát triển quốc gia trong tương lai.

Dưới đây là góc nhìn của hai chuyên gia:

ĐBQH. Nguyễn Thị Việt Nga cho rằng, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành phù hợp với xu thế thời đại. (Nguồn: Quốc hội)

ĐBQH. Nguyễn Thị Việt Nga, Phó trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH TP. Hải Phòng: Tinh thần tỉnh mới

Chủ trương sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh, là một quyết sách thể hiện rõ tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược và tinh thần cải cách mạnh mẽ, dám nghĩ, dám làm của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Đây không đơn thuần là một biện pháp hành chính, mà là bước đi lớn về thể chế nhằm tổ chức lại không gian phát triển, khai thác hiệu quả hơn các nguồn lực sẵn có, tạo đột phá trong quản trị và phát triển vùng, liên kết vùng.

Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi phải quy hoạch và vận hành các nguồn lực từ đất đai, con người đến hạ tầng, công nghệ trên quy mô tích hợp, liên vùng. Việc duy trì quá nhiều đơn vị hành chính cấp tỉnh nhỏ lẻ với diện tích và dân số chênh lệch lớn không chỉ gây lãng phí mà còn cản trở đầu tư dài hạn và phát triển bền vững. Do đó, sáp nhập cấp tỉnh là hướng đi tất yếu, phù hợp với xu thế thời đại và yêu cầu nội tại của đất nước.

Hơn thế, chủ trương này còn là minh chứng rõ ràng cho thấy Đảng ta đang hành động vì cải cách thực chất. Mục tiêu không chỉ là nâng cao hiệu lực của bộ máy hành chính mà còn nhằm kiến tạo động lực phát triển mới, thúc đẩy sự kết nối giữa các địa phương để tiềm năng từng nơi được phát huy ở tầm cao hơn – tầm vùng và quốc gia.

Nhìn tổng thể, các yếu tố cốt lõi cho thấy sự đúng đắn và cấp thiết của chủ trương này có thể kể đến: Thứ nhất, đó là yêu cầu thực tiễn về tổ chức lại không gian phát triển kinh tế và hệ thống lãnh thổ. Tình trạng các địa phương "đứng cạnh nhau mà phát triển đơn độc", thiếu liên kết, dẫn đến tiềm năng bị chia cắt, quy hoạch chồng chéo là điều đã tồn tại từ lâu. Sáp nhập nhằm hình thành các đơn vị hành chính đủ quy mô, đủ tầm để thực hiện quy hoạch đồng bộ, khai thác hiệu quả hạ tầng, tài nguyên và nguồn nhân lực chất lượng cao.

"Chính sách cũng phải công bằng, minh bạch, tránh tạo cảm giác phân biệt 'tỉnh cũ – tỉnh mới'. Mọi cư dân trong đơn vị hành chính mới cần cảm thấy bình đẳng, có tiếng nói, có cơ hội phát triển. Những yếu tố ấy là nền móng vững chắc để tạo dựng niềm tin và đồng thuận xã hội".

Thứ hai, là yêu cầu cấp bách trong tiến trình xây dựng nền hành chính hiện đại. Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ và cuộc CMCN 4.0 diễn ra sâu rộng, bộ máy hành chính cần tinh gọn, linh hoạt và thông minh hơn. Việc cắt giảm đầu mối, giảm trùng lặp chức năng sẽ giúp nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí vận hành, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các công nghệ số vào quản lý nhà nước. Không thể bước vào tương lai bằng những thiết kế cũ kỹ về thể chế.

Thứ ba, sáp nhập còn thể hiện khát vọng vươn lên mạnh mẽ của quốc gia. Một đất nước đang hướng tới mục tiêu trở thành nước phát triển vào giữa thế kỷ XXI không thể tiếp tục phát triển theo tư duy địa phương hóa nhỏ lẻ. Việc hình thành các "siêu tỉnh" có quy mô đủ lớn sẽ là tiền đề để thu hút đầu tư chiến lược, phát triển các trung tâm đô thị, giáo dục, nghiên cứu và logistics quy mô vùng – những trụ cột cho phát triển quốc gia trong tương lai.

Tuy nhiên, để quá trình sáp nhập đơn vị hành chính diễn ra hiệu quả, yếu tố then chốt chính là tinh thần đoàn kết. Đoàn kết trước hết là sự đồng thuận trong tư tưởng giữa các cấp ủy đảng, chính quyền và hệ thống chính trị ở các địa phương. Lãnh đạo các tỉnh cần đặt lợi ích lâu dài lên trên quyền lợi cục bộ, hướng đến cái “chung” thay vì cái “tôi”. Người dân cũng cần được thông tin đầy đủ, tham gia vào các quyết định quan trọng để cảm thấy mình là chủ thể cải cách, không bị gạt ra bên lề.

Đồng thời, chính sách cũng phải công bằng, minh bạch, tránh tạo cảm giác phân biệt “tỉnh cũ – tỉnh mới”. Mọi cư dân trong đơn vị hành chính mới cần cảm thấy bình đẳng, có tiếng nói, có cơ hội phát triển. Những yếu tố ấy là nền móng vững chắc để tạo dựng niềm tin và đồng thuận xã hội.

Việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết đòi hỏi sự phối hợp giữa ba trụ cột: hệ thống chính trị, chính quyền và người dân. Trong đó, vai trò nêu gương, chủ động của lãnh đạo các cấp là đặc biệt quan trọng. Nếu người đứng đầu thể hiện được tinh thần đại cục, bao dung và đồng hành vì lợi ích chung, thì sự tin tưởng và hợp tác trong xã hội sẽ lan tỏa mạnh mẽ.

Chúng ta cũng cần hết sức khéo léo trong việc tổ chức lại các thiết chế hành chính, văn hóa, giáo dục… sao cho vừa tinh gọn, hiệu quả vừa giữ gìn được giá trị truyền thống. Có thể giữ lại tên gọi quen thuộc của công trình công cộng, biểu tượng văn hóa như một cách làm mềm lại quá trình thay đổi, để người dân không thấy mình đánh mất ký ức và bản sắc địa phương. Như một nhà văn từng viết: “Con người gắn bó với tên gọi, với chốn quen, với những điều nhỏ bé đã trở thành máu thịt”. Những điều tưởng như bé nhỏ đó lại chính là điểm tựa của tâm lý xã hội trong các thời khắc chuyển tiếp.

Từ góc độ của một đại biểu Quốc hội, tôi đề xuất một số giải pháp để duy trì và củng cố tinh thần đoàn kết trong quá trình triển khai chủ trương: Trước hết, cần phân bổ nguồn lực đầu tư công một cách công khai, minh bạch và hợp lý giữa các vùng. Cần quan tâm đúng mức tới các trung tâm cũ để tránh tâm lý bị bỏ rơi, đồng thời có chính sách ưu tiên những vùng khó khăn để phát triển hài hòa.

Đồng thời, lựa chọn cán bộ cần dựa trên năng lực và phẩm chất, không máy móc chia theo tỷ lệ vùng miền. Người cán bộ phải có khả năng kết nối, gắn kết các vùng và tạo dựng niềm tin chung cho cộng đồng. Trong thời điểm chuyển tiếp, họ chính là “cầu nối” giữa cũ và mới, giữa truyền thống và đổi mới.

Bên cạnh đó, cần ban hành các chính sách đặc thù cho giai đoạn chuyển tiếp của tỉnh mới sau sáp nhập vừa để tháo gỡ khó khăn, vừa tạo “cú hích” phát triển. Các chính sách đó cần linh hoạt, có tính thích ứng cao và mang lại hiệu quả thực tế.

Cuối cùng cũng là điều quan trọng nhất là xây dựng một “tinh thần tỉnh mới”. Đó là bản sắc chung, mục tiêu chung, khát vọng chung của toàn thể cư dân sau sáp nhập. Từ nhiều mạch nguồn văn hóa và lịch sử khác nhau, chúng ta phải khơi dậy một điểm giao thoa – nơi mọi người có thể cùng nhau tự hào, cùng nhau kiến tạo tương lai. Khi khát vọng được thống nhất, tinh thần đại đoàn kết sẽ trở thành nền tảng vững bền nhất cho phát triển bền vững.

TS. Cù Văn Trung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chính sách và các vấn đề xã hội: Dẫn dắt dân tộc bằng sức mạnh nội sinh

TS. Cù Văn Trung.

Sáp nhập đơn vị hành chính là chúng ta đang đi những chặng đường mới, hành trình mới. Vì thế, bằng kinh nghiệm vốn có, mỗi người đều phải tự làm mới các kỹ năng của mình trong quá trình thực thi công vụ.

Từ ngày 1/7/2025, 34 tỉnh, thành trên cả nước chính thức vận hành chính quyền địa phương 2 cấp, gồm cấp tỉnh và cấp xã, sau thời gian chạy thử nghiệm. Đây sẽ là dấu mốc lịch sử quan trọng trong tiến trình cải cách nền hành chính.

Tầm vóc và ý nghĩa chiến lược của bước đi này đối với sự phát triển của Việt Nam trong dài hạn không chỉ là gọn nhẹ bộ máy mà còn ở khía cạnh phát triển mạnh mẽ hơn. Một dân tộc biết tập hợp sức mạnh của nhân dân để thực hiện những đòi hỏi của thời đại mới, chính là một dân tộc dũng cảm, anh hùng. Ở đây, chúng ta hoàn toàn có thể tự hào về những người cộng sản đang cầm quyền ở Việt Nam giai đoạn nay. Đảng ta đang thực hiện cuộc cải cách có tính chất cách mạng về mô hình của hệ thống chính trị.

Những gì đã thể hiện thời gian qua, chúng ta hoàn toàn có thể tự hào về Đảng, về những nhà lãnh đạo Việt Nam hiện nay bởi tư tưởng cấp tiến và đổi mới. Thời đại mới, mỗi quốc gia, dân tộc phải định vị lại mình, định hình những giá trị của mình. Nói như vậy có nghĩa, dân tộc ta đang phục hưng đất nước, Đảng ta đang dẫn dắt dân tộc Việt Nam bằng chính sức mạnh nội sinh và năng lực nội tại của người Việt.

Sự thay đổi về địa giới hành chính và cơ cấu nhân sự chắc chắn sẽ mang lại cả cơ hội và thách thức. Thực tế có nhiều cơ hội lớn mà các đơn vị hành chính sau sáp nhập có thể tận dụng để bứt phá. Trong đó, cơ hội lớn nhất chính là sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong cơ chế phân cấp, phân quyền mà Đảng ta chủ trương, chỉ đạo.

Có con người (nguồn nhân lực), có lực lượng, có tài nguyên và có vốn liếng trong nhân dân, mỗi địa phương chính là một kho tiềm năng và Trung ương giao phó tính chủ động đó cho các chính quyền cơ sở, tỉnh và thành phố khai mở, khai thác để phát triển.

Cơ hội ở chỗ đó, tỉnh nào phát huy được, làm được thì thể hiện được sự năng động, bản lĩnh của mình; không còn tình trạng đùn đẩy, cồng kềnh, nhiều tầng nấc, khó quy trách nhiệm. Giờ đây, bộ máy tinh gọn hơn, nhân lực chất lượng hơn, ngân sách và tiềm lực trong nhân dân sẵn có hơn. Đấy là những "miền đất mới" để cán bộ bứt phá, dẫn dắt nhân dân, để mỗi tỉnh thành sẽ ngày càng phát triển.

Để quá trình sáp nhập thực sự là "khởi đầu cho một vận hội phát triển mới", Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách đặc thù để hỗ trợ các địa phương thích nghi, phát huy lợi thế sau sáp nhập. Vai trò của việc sắp xếp, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới cũng là yếu tố quan trọng.

Trong các đạo Luật cũng đang dần được sửa đổi và có quy định, có lưu ý đến các địa phương đặc thù và các đặc khu. Cụm từ "đặc khu" gần đây được nhắc đến nhiều chính là thể hiện tư duy, tư tưởng ấy của Đảng ta. Nơi nào cần cởi mở hơn, cần cơ chế thông thoáng hơn, các địa phương có đủ tiêu chí, tiêu chuẩn là đặc thù thì xây dựng chính sách, xây dựng các kịch bản và mô hình phát triển để trình cấp cao hơn, trình Trung ương và Quốc hội xem xét, phê duyệt.

Đảng ta thường xuyên nhấn mạnh vai trò của địa phương bằng các cụm từ như “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” đương nhiên là dựa trên các chủ trương, cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước và quy định của pháp luật.

Vấn đề về câu chuyện cán bộ với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp cũng thu hút sự quan tâm của dư luận. Người ta đặt ra câu hỏi về chất lượng cũng như hiệu quả làm việc của đội ngũ này khi sáp nhập, sắp xếp. Tôi cho rằng, tất cả đều phải vừa học, vừa làm, vừa đào tạo, đúng kiểu "vừa chạy vừa xếp hàng".

Chúng ta đang đi những chặng đường mới, hành trình mới. Vì thế, bằng kinh nghiệm vốn có, mỗi cán bộ, mỗi người dân đều phải tự làm mới các kỹ năng của mình trong quá trình thực thi công vụ. Quá trình bồi dưỡng đào tạo cán bộ là quá trình hai chiều. Bộ Nội vụ hay các trường Chính trị đều xây dựng giáo trình, học liệu từ thực tiễn, từ cơ sở. Chính đội ngũ cán bộ phải là những người làm mới, đóng góp vào công tác bồi dưỡng nghiệp vụ ấy.

Trong công cuộc cải cách chính trị có tính chất cách mạng này, nói một cách ví von là những nhà lãnh đạo đất nước cũng rất tài hoa khi vừa phải “đánh cờ, vừa phải đẽo quân”. Nếu chỉ trông chờ mọi việc vào công tác đào tạo, bồi dưỡng của Trung ương, Bộ Nội vụ, Trường, lớp thì mỗi cán bộ chưa thực sự "chuyển mình". Do đó, cùng với việc chờ đợi tập huấn thì mỗi cán sự, chuyên viên hãy phản hồi, góp ý vào quy trình hoàn thiện mô hình của hệ thống chính quyền 2 cấp với cơ quan, đơn vị đào tạo, bồi dưỡng có thẩm quyền.

Sự sáp nhập các đơn vị hành chính hướng tới một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc và bền vững. Sẽ có những tác động cụ thể đến đời sống người dân ở các địa phương sau sáp nhập, đặc biệt là về kinh tế, văn hóa và xã hội. Điều quan trọng là làm thế nào để đảm bảo người dân được hưởng lợi tối đa từ quá trình này và chung tay xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.

Chúng ta thấy bắt đầu lộ rõ những ưu việt của mô hình chính quyền 2 cấp, từ việc cấp sổ đỏ, giấy phép xây dựng, công chứng, làm các thủ tục hành chính khác, mọi thứ đều rất nhanh, rất rõ ràng và minh bạch. Dường như nhân dân có thiện cảm nhiều hơn với chính quyền, với cán cán bộ. Người người, nhà nhà hòa cùng khí thế mới, tâm thế mới của đất nước. Vì vậy, sự tín nhiệm của nhân dân và xã hội với Đảng, Nhà nước ngày càng tăng lên.

Khi người dân và xã hội hòa cùng với dòng chảy của đất nước, của Đảng, cùng hướng tới mục tiêu vì quyền lợi của nhân dân thì xã hội có “muôn vàn ngã rẽ" để người dân có cách thụ hưởng trái ngọt mà cơ chế, chính sách do Đảng và Nhà nước Việt Nam tiến hành.

Đón đọc Bài 3 - ĐBQH. Bùi Hoài Sơn: Sáp nhập đơn vị hành chính là bước đi lịch sử của dân tộc