📞

Điều gì khiến nhiều nhà bán lẻ Mỹ sụp đổ trong năm 2017?

07:30 | 13/04/2017
Mặc dù Mỹ vẫn đang trong giai đoạn phục hồi kinh tế nhưng hàng trăm cửa hàng và trung tâm mua sắm tại nước này đang lần lượt đóng cửa. 

Từ đầu năm 2017 đến nay đã có 9 nhà bán lẻ Mỹ phá sản, nhiều hơn tổng số nhà bán lẻ phá sản trong năm 2016. Các nhà bán lẻ tên tuổi như J.C. Penney, RadioShack, Macy's, và Sears đã công bố đóng cửa hơn 100 cửa hàng. Trong khi Sports Authority thanh lý thương hiệu thì Payless đệ đơn xin phá sản. Tuần trước, giá cổ phiếu của một số công ty may mặc Mỹ đã rơi xuống mức thấp nhất trong nhiều năm qua, bao gồm Lululemon, Urban Outfitters, American Eagle… Trong khi đó, nhà mốt Ralph Lauren tuyên bố sẽ đóng cửa hàng Polo lớn hàng đầu tại đại lộ Fifth Avenue, tiếp bước sau một số thương hiệu phải từ bỏ đại lộ mua sắm lớn nhất New York này.

Thường thì sự suy thoái kinh tế sâu có thể là cách giải thích hợp lý cho “sự tuyệt chủng” của các nhà bán lẻ lớn này, nhưng GDP của Mỹ vẫn không ngừng tăng lên trong vòng 8 năm qua, giá gas giảm, tỷ lệ thất nghiệp dưới 5% và 18 tháng qua là thời điểm tăng thu nhập tuyệt vời, đặc biệt là đối với người Mỹ có thu nhập trung bình và thấp.

Vậy điều gì không ổn đang xảy ra? Thực tế là lượng tiêu dùng hàng hóa bán lẻ về tổng thể vẫn tăng đều đặn, mặc dù khá ít ỏi, tuy nhiên một số xu hướng, bao gồm sự phát triển thương mại điện tử, mở quá nhiều trung tâm mua sắm - đã tạo ra sự thay đổi đối với thói quen mua sắm của người Mỹ.

Hàng trăm cửa hàng và trung tâm mua sắm tại Mỹ đang lần lượt đóng cửa. (Nguồn: Reuters)

Dưới đây là 3 lời giải thích về sự sụp đổ gần đây của các cửa hàng bán lẻ ở Mỹ.

Người dân mua nhiều hàng hóa trực tuyến hơn

Giải thích đơn giản nhất cho sự sụp đổ của các cửa hàng truyền thống là bị các nhà bán lẻ trực tuyến như Amazon chiếm mất thị phần. Từ năm 2010 đến cuối năm 2016, doanh thu của Amazon ở Bắc Mỹ đã tăng gấp 5 lần từ 16 tỷ USD lên 80 tỷ USD. Trong khi đó, doanh thu của Sears năm ngoái chỉ khoảng 22 tỷ USD. Có thể thấy rằng, Amazon đã tăng trưởng gấp 4 lần Sears trong 6 năm. Đáng chú ý hơn, theo một số báo cáo, một nửa trong số tất cả các hộ gia đình ở Mỹ hiện là thành viên của Amazon Prime (gói dịch vụ khách hàng thành viên cao cấp của Amazon).

Nhưng câu chuyện không đơn giản chỉ vì Amazon, nhìn nhận một cách đầy đủ thì phương thức mua sắm trực tuyến đã làm tốt trong một thời gian dài thông qua các phương tiện truyền thông và các loại hình giải trí trực tuyến. Bên cạnh đó, các chính sách hoàn trả dễ dàng đã khiến cho người tiêu dùng may mặc trực tuyến có thể mua sắm đồ rẻ, dễ dàng và không có rủi ro. Sự thành công của những doanh nghiệp mới thành lập như Casper, Bonobos và Warby Parker (giường, quần áo và kính) đã buộc các nhà bán lẻ cũ phải bổ sung các giao dịch và tiện lợi trực tuyến tương tự.

Hơn thế nữa, mua sắm trên thiết bị di động đang ngày càng dễ dàng hơn nhờ các ứng dụng và ví điện tử. Kể từ năm 2010, giao dịch thương mại thông qua điện thoại di động đã tăng từ 2% lên 20%. Sự gia tăng của thương mại điện tử không chỉ đẩy doanh số bán hàng trực tuyến mà còn tạo ra những thói quen mua sắm mới, khiến họ sẽ ngồi nhà mua sắm trực tuyến thay vì tốn nhiều thời gian hơn để đến các cửa hàng truyền thống.

Tăng trưởng giao dịch thương mại thông qua điện thoại di động từ năm 2010-2016. (Nguồn: Cowen Research)

Mỹ xây dựng quá nhiều trung tâm mua sắm

Hiện Mỹ có khoảng 1.200 trung tâm mua sắm. Trong vòng một thập niên qua, khoảng 900 trung tâm mua sắm đã mọc lên. Tình trạng hiện nay không phải là “cái chết của các trung tâm mua sắm”, tuy nhiên đây là sự suy giảm không thể tránh khỏi.

Theo Cowen Research, tỷ lệ mua sắm trên đầu người của Mỹ nhiều hơn 40% so với Canada, gấp 5 lần Anh và gấp 10 lần Đức. Báo cáo của công ty nghiên cứu bất động sản Cushman và Wakefield cho biết: “Xu hướng gia tăng của các trung tâm thương mại đã giảm 50% từ năm 2010-2013 và tiếp tục giảm mỗi năm sau đó”.

Sự chuyển đổi tiêu dùng từ chủ nghĩa duy vật sang chủ nghĩa duy tâm

Ngay cả khi thương mại điện tử gia tăng và không gian mua sắm quá tải đã buộc phải đóng cửa hàng ngàn cửa hàng bán lẻ, nhưng tại sao cuộc khủng hoảng này lại xảy ra trong khi tiền lương cho người Mỹ có thu nhập thấp đang tăng nhanh hơn bất kỳ thời điểm nào kể từ những năm 1990?

Thứ nhất, mặc dù mức lương của người lao động tăng cao và nền kinh tế nói chung vẫn phát triển, nhưng các doanh nghiệp hiện nay thu về tỷ suất lợi nhuận khá thấp từ các cửa hàng bán lẻ. Trong khi đó, nhân viên thu ngân và nhân viên bán lẻ là hai loại việc làm phổ biến nhất ở nước Mỹ. Với khoảng hơn 8 triệu người làm những công việc này, thu nhập trung bình cho cả hai ngành nghề này ít hơn 25.000 USD/năm. Nhưng gần đây, luật về mức lương tối thiểu mới và thị trường lao động thắt chặt đã đẩy lương cho những người lao động nghèo nhất, ép các nhà bán lẻ phải tăng lương cho nhân viên và lợi nhuận thu về vì thế bị ảnh hưởng.

Thứ hai, tầm quan trọng của các cửa hàng quần áo đã suy giảm vì người tiêu dùng giờ đây thay vì mua sắm quần áo, họ thích đi du lịch và ăn uống ngon hơn. Trước thời kỳ suy thoái kinh tế, người ta mua rất nhiều thứ như nhà cửa, đồ đạc, xe hơi và quần áo, khiến doanh thu bán lẻ tăng mạnh trong những năm 1990. Nhưng thời thế đã thay đổi, giới trẻ hiện nay tôn sùng nhiều yếu tố phi vật chất như du lịch, trải nghiệm hơn.

Nhiều thanh thiếu niên hiện nay cho rằng những trải nghiệm sẽ là phương tiện truyền thông xã hội tốt nhất của họ. (Nguồn: Travel With Jane)

Điều này được minh chứng bằng sự bùng nổ của ngành du lịch. Năm ngoái,các hãng hàng không Mỹ đã lập kỷ lục với 823 triệu hành khách. Sự gia tăng của các nhà hàng thậm chí còn “kịch tính” hơn. Từ năm 2005, doanh số bán hàng của các dịch vụ ăn uống và uống rượu đã tăng gấp đôi so với tất cả các khoản chi tiêu bán lẻ khác. Năm 2016, lần đầu tiên trong lịch sử người Mỹ đã chi nhiều tiền hơn cho các nhà hàng và quán rượu hơn là ở các cửa hàng tạp hóa.

Nhiều thanh thiếu niên hiện nay cho rằng những trải nghiệm sẽ là phương tiện truyền thông xã hội tốt nhất của họ. Một tấm hình nằm dài trên bãi biển hay ảnh lát bánh mì nướng lấp lánh được nhiều người “like” trên Instagram có thể khiến họ hạnh phúc hơn nhiều cảm giác mua sắm một bộ quần áo đắt tiền. 

(theo The Atlantic)