Ngay từ những ngày đầu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thư gửi Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) đề nghị công nhận, kết nạp Việt Nam trở thành thành viên của LHQ. Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước (1945 – 1975), đối ngoại đa phương đã góp phần khẳng định vị thế của một nước Việt Nam độc lập, thống nhất với những quyền dân tộc cơ bản trên trường quốc tế, hình thành mặt trận quốc tế rộng rãi chưa từng có để ủng hộ và hỗ trợ Việt Nam đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Những bước trưởng thành mạnh mẽ của đối ngoại đa phương
Phát huy tính chính nghĩa của công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, ta đã kết hợp khéo léo giữa đối ngoại đa phương và song phương, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước bạn bè, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc, nhân dân các nước và mọi lực lượng yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới. Những cuộc đàm phán đa phương với các cường quốc tại Geneva năm 1954, các vòng đàm phán Paris kéo dài từ năm 1968 đến đầu năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam là những dấu son nổi bật của đối ngoại nước ta nói chung và đối ngoại đa phương nói riêng.
|
Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (từ năm 1975 đến nay), đối ngoại đa phương Việt Nam đã trưởng thành mạnh mẽ, triển khai toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh tế - phát triển, xã hội và văn hóa, ngày càng tích cực, chủ động, đa dạng về cấp độ, phương thức và đã đạt được những thành tựu to lớn, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc phá thế bao vây cấm vận, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, tăng cường và làm sâu sắc hơn các mối quan hệ song phương, nâng cao vị thế đất nước, thu hút mọi nguồn lực phục vụ phát triển đất nước. Đặc trưng nổi bật của đối ngoại đa phương Việt Nam là luôn có sự kết hợp khéo léo và đồng bộ giữa ngoại giao Nhà nước, trong đó có Quốc hội, với đối ngoại Đảng và ngoại giao nhân dân. Các đoàn thể và tổ chức nhân dân của ta tham gia ngày càng nhiều trên các diễn đàn quốc tế, qua đó tranh thủ sự ủng hộ, tăng cường tình hữu nghị, đoàn kết với nhân dân thế giới đối với công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của nước ta.
Việc nước ta trở thành thành viên của Liên hợp quốc ngày 20/9/1977 có ý nghĩa chính trị - pháp lý quan trọng, khẳng định vị trí đầy đủ của một nước Việt Nam độc lập, thống nhất trên trường quốc tế, mở ra thời kỳ mới cho triển khai hoạt động đối ngoại nói chung và đối ngoại đa phương nói riêng. Ở tầm khu vực, việc gia nhập ASEAN năm 1995 có ý nghĩa mở đường cho tiến trình hội nhập khu vực và đến nay, nước ta đã tham gia hầu hết các cơ chế khu vực then chốt, nổi bật là Diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Ở tầm liên khu vực, nước ta đã tham gia sáng lập Hội nghị Á-Âu (ASEM) năm 1996, tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao Pháp ngữ năm 1997 và Hội nghị Cấp cao ASEM năm 2004. Việc trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 là mốc quan trọng ghi dấu tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta ở quy mô toàn cầu.
Với chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện, ta tham gia và đóng góp ngày càng tích cực, chủ động, đa dạng về cấp độ, hình thức, phương thức, đối tác và có nhiều chuyển biến về chất lượng. Năng lực chủ trì, điều hành và vai trò dẫn dắt của Việt Nam ngày càng được khẳng định, đặc biệt với việc đảm nhận thành công các trọng trách quốc tế như Chủ tịch ASEAN năm 2010, thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 và chủ nhà Năm APEC 2006 và 2017. Kể từ năm 2014, ta cử lực lượng quân đội tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, đánh dấu một bước nâng tầm hội nhập và đóng góp của ta đối với nỗ lực quốc tế duy trì hòa bình và an ninh thế giới.
Đối ngoại đa phương, nhất là tại các diễn đàn chủ chốt như ASEAN, Liên hợp quốc và phong trào Không liên kết, luôn ở tuyến đầu trong nỗ lực bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, duy trì môi trường hòa bình và ổn định phục vụ phát triển. Việc vận dụng luật pháp quốc tế, chuẩn mực chung và đấu tranh pháp lý, công luận là những công cụ then chốt để thực hiện những mục tiêu đó. Ta cũng bước đầu tham gia hình thành các cơ chế hợp tác, xây dựng luật lệ, chuẩn mực chung, như việc thúc đẩy triển khai Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông (DOC), xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Đến nay, nước ta tích cực tham gia một mạng lưới rộng lớn của hầu hết các cơ chế hợp tác, liên kết kinh tế đa phương từ cấp độ toàn cầu (WTO, WB, IMF…), liên khu vực (ASEM, APEC, FEALAC…), khu vực (ASEAN, ADB…) cho đến mạng lưới các hiệp định thương mại tự do với hầu hết các trung tâm kinh tế - thương mại hàng đầu thế giới. Việc ta tham gia mạng lưới liên kết kinh tế đa phương như vậy đã góp từng bước mở cửa, gắn nền kinh tế và thị trường trong nước với khu vực và thế giới, tiếp thu những nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế, thu hút nguồn lực cho phát triển, tạo thêm động lực xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...
Hợp tác đa phương trong các lĩnh vực văn hóa, an sinh xã hội, lao động, thông tin - truyền thông, môi trường, du lịch... ngày càng được mở rộng trên tinh thần áp dụng một cách chọn lọc các tiêu chí, tiêu chuẩn khu vực và quốc tế phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, qua đó giúp hình thành bản sắc văn hóa Việt Nam thời kỳ hội nhập, thúc đẩy tiến bộ xã hội, phát triển thị trường lao động và hệ thống an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo và thực hiện các Mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc… Hội nhập khu vực và quốc tế về khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển nền khoa học, giáo dục tiên tiến, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thông tin và y tế quốc gia đáp ứng nhu cầu của người dân, tiến tới thu hẹp khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới trong các lĩnh vực này.
Đối ngoại đa phương Việt Nam trước những yêu cầu mới
Bên cạnh những thành tựu kể trên, việc triển khai công tác đối ngoại đa phương trên thực tế vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục như tư duy, cách tiếp cận trong công tác đối ngoại đa phương chuyển chậm so với chuyển biến của tình hình khu vực, quốc tế và tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta. Mức độ tham gia, tranh thủ hợp tác đa phương của nước ta trên nhiều lĩnh vực còn thấp, không đều, tính chủ động chưa cao, chỉ tập trung vào một số thời điểm và/hoặc lĩnh vực cụ thể, chưa tạo sự lan tỏa; đóng góp, đề xuất sáng kiến còn hạn chế, thiếu đồng bộ. Ta cũng chưa tận dụng đầy đủ những lợi ích mà hợp tác đa phương mang lại đối với công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; chưa khai thác triệt để thế mạnh của đa phương trong quốc phòng; còn thiếu chủ động trong triển khai, áp dụng và nội luật hóa các cam kết, tiêu chuẩn, luật lệ quốc tế hoặc triển khai theo lộ trình của từng ngành, lĩnh vực nên chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp, thiếu sự gắn kết, gây sự chồng chéo, lãng phí nguồn lực. Đội ngũ cán bộ đa phương thiếu về số lượng, hạn chế về kỹ năng, trình độ; chưa có đội ngũ chuyên gia làm việc tại các tổ chức, diễn đàn đa phương.
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh cùng các đại biểu tại Hội nghị liên bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế trong khuôn khổ Tuần lễ Cấp cao APEC Việt Nam 2017 tại Đà Nẵng, tháng 11/2017 (ảnh TA/TGVN) |
Thế giới đang bước vào thời kỳ phát triển mới với nhiều chuyển biến sâu rộng. Hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế lớn, cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm dần được định hình rõ nét, song các thách thức toàn cầu, thách thức phi truyền thống ngày càng gay gắt, diễn biến nhanh, phức tạp, buộc các quốc gia, khu vực phải chung tay cùng giải quyết thông qua các cơ chế hợp tác đa phương, trước hết là Liên hợp quốc. Các thể chế hợp tác đa phương đa lĩnh vực, đa tầng nấc vẫn tiếp tục phát triển, tạo nền tảng quan trọng cho quan hệ quốc tế. Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động hàng đầu thế giới, có vị trí địa - kinh tế và địa chính trị chiến lược quan trọng, duy trì vai trò là động lực của tăng trưởng và liên kết kinh tế toàn cầu, một trung tâm chính trị trọng yếu của thế giới. Tuy nhiên, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, thực dụng, cách hành xử đơn phương, chính trị cường quyền... cũng đang có xu hướng quay trở lại mạnh hơn, thách thức vai trò của các thể chế đa phương; đồng thời, một số cơ chế đa phương mới xuất hiện nhằm phục vụ mục tiêu cạnh tranh của các nước lớn, đặt các nước vừa và nhỏ vào thế phải lựa chọn đứng về một phía.
Ở trong nước, Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng định hướng công tác đối ngoại đa phương là “Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc”. Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế cũng nêu rõ nhiệm vụ “chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần xây dựng trật tự chính trị và kinh tế công bằng, dân chủ, ngăn ngừa chiến tranh, xung đột, củng cố hòa bình, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi”. Đối ngoại đa phương Việt Nam đứng trước yêu cầu phải thể hiện tầm vóc toàn diện và sâu rộng so với các thời kỳ trước, chuyển mạnh sang “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”, thể hiện tinh thần “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, đồng thời tiếp tục nỗ lực hoàn tất các cam kết quốc tế quan trọng như là cam kết gia nhập WTO vào năm 2018, ASEAN 2025, Mục tiêu phát triển bền vững 2030, Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.
Đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương theo tinh thần Chỉ thị số 25-CT/TW
Xuất phát từ tình hình đó, ngày 08/8/2018, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030, văn bản chỉ đạo đầu tiên Đảng ta về công tác đối ngoại đa phương của đất nước, đưa đối ngoại đa phương thành một nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là một định hướng chiến lược quan trọng hàng đầu và là một phương thức hiệu quả thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược - xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ trưởng Ngoại giao Lê Hoài Trung tiếp ông Michael Croft, Trưởng đại diện Văn phòng UNESCO tại Việt Nam. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Chỉ thị 25 đã xác định mục tiêu cho công tác đối ngoại đa phương thời gian tới là “nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước”, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể của nước ta. Thành công của đối ngoại đa phương thời gian qua, đặc biệt là thành công của Năm APEC 2017, với vai trò và vị thế gia tăng của Việt Nam, đã chứng minh khả năng đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải của nước ta tại các cơ chế đa phương, không chỉ dừng lại ở việc tham gia, đóng góp. Việc ta vươn lên giữ vai trò quan trọng hơn tại các cơ chế đa phương then chốt sẽ góp phần nâng cao vị thế, tạo điều kiện cho Việt Nam có thể lồng ghép các ưu tiên, thúc đẩy những lợi ích của đất nước.
Nhằm thực hiện mục tiêu nêu trên, Chỉ thị đề ra 6 quan điểm chỉ đạo chính là: (i) Việc đẩy mạnh và nâng tầm hoạt động đối ngoại đa phương là một định hướng chiến lược đối ngoại quan trọng hàng đầu, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, của cả hệ thống chính trị; (ii) Triển khai công tác đối ngoại đa phương phải bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, đồng thời tích cực góp phần vào việc giải quyết các vấn đề chung của khu vực và toàn cầu; (iii) Trong triển khai đối ngoại đa phương cần xử lý cân bằng, hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam với những mối quan tâm chính đáng của đối tác; (iv) Chủ động tham gia, tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương minh bạch, công bằng, dân chủ, bền vững; đồng thời, khai thác, phát huy tối đa lợi ích mà hợp tác đa phương mang lại; (v) Kết hợp chặt chẽ đối ngoại đa phương với đối ngoại song phương, góp phần làm sâu sắc thêm quan hệ song phương với các đối tác lớn, quan trọng; (vi) Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, huy động mọi tiềm năng của toàn xã hội.
Trên cơ sở đó, Chỉ thị đề ra 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp để triển khai đồng bộ các hoạt động đối ngoại đa phương trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, xã hội, môi trường, giáo dục – đào tạo… Các tầng nấc ưu tiên trong triển khai đối ngoại đa phương được xác định là ASEAN, Liên hợp quốc; đặc biệt, với vai trò là khu vực then chốt đối với không gian phát triển của Việt Nam và đang trở thành một trung tâm quyền lực mới của thế giới, các khuôn khổ hợp tác ở châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có hợp tác tiểu vùng cũng được xác định là một tầng nấc ưu tiên trong triển khai công tác đối ngoại đa phương thời gian tới.
Đối ngoại đa phương trong lĩnh vực kinh tế được xác định là trọng tâm ưu tiên do phù hợp với xu hướng chung là các quốc gia đều ưu tiên phát triển kinh tế để gia tăng sức mạnh tổng hợp của quốc gia, đồng thời phù hợp với ưu tiên của ta là tập trung phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong thời gian tới, ta cần tham gia, đóng góp, tận dụng hiệu quả hợp tác kinh tế trên các tầng nấc; thúc đẩy các lợi ích then chốt về kinh tế - phát triển; chủ động triển khai các cam kết kinh tế quốc tế, trong đó có việc tận dụng hiệu quả, đồng thời có biện pháp ứng phó phù hợp với các Hiệp định thương mại tự do (FTA) ký kết với các nước; chủ động nắm bắt và tận dụng cơ hội phát triển do xu thế trở thành động lực tăng trưởng và liên kết kinh tế toàn cầu khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đem lại.
Đẩy mạnh đối ngoại đa phương trong lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh nhằm mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; gia tăng sự gắn kết an ninh, ổn định và phát triển của nước ta với an ninh, ổn định và phát triển của khu vực; thúc đẩy tuân thủ luật pháp quốc tế, giải quyết hòa bình các tranh chấp tôn trọng đầy đủ các tiến trình ngoại giao, pháp lý; và đóng góp giải quyết quan tâm chung, ứng phó thách thức toàn cầu. Chú trọng nâng cao chất lượng đối ngoại đa phương trong các lĩnh vực xã hội, môi trường, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa, y tế và các lĩnh vực khác, trong đó tập trung triển khai các cam kết khu vực và quốc tế liên quan, nhất là Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững và Thỏa thuận Pa-ri về biến đổi khí hậu; lồng ghép với các chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở cấp quốc gia và cấp bộ, ngành, địa phương; thu hẹp khoảng cách phát triển; bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và thiên tai; bảo đảm an sinh xã hội và việc làm bền vững; cải cách hệ thống giáo dục, phát triển nguồn nhân lực chất lượng, gắn với đổi mới sáng tạo và công nghệ số; quảng bá nền văn hóa Việt Nam giàu bản sắc dân tộc đi đôi với việc tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, thúc đẩy quyền con người, bình đẳng giới, chống tham nhũng, xử lý hệ lụy của đô thị hóa, già hóa dân số… Nâng cao năng lực triển khai công tác đối ngoại đa phương thông qua việc đẩy mạnh đổi mới tư duy, cách tiếp cận, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của đối ngoại đa phương; kiện toàn cơ chế phối hợp, giám sát, đôn đốc trong triển khai đối ngoại đa phương; chủ động đăng cai tổ chức các hoạt động đa phương lớn để nâng cao vị thế, thúc đẩy hợp tác và quảng bá hình ảnh đất nước; đẩy mạnh công tác đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, chuyên gia làm công tác đối ngoại đa phương theo hướng chuyên nghiệp, có bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn và kỹ năng đa phương trong kỷ nguyên số và toàn cầu hóa.
Nhằm thực hiện thắng lợi Chỉ thị 25 về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, góp phần đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu và rộng, tăng cường sức mạnh tổng hợp, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cần tạo sự đồng thuận cao trong toàn hệ thống chính trị và trong toàn xã hội về tầm quan trọng của đối ngoại đa phương, thúc đẩy đổi mới tư duy, cách tiếp cận và biện pháp thực hiện việc đẩy mạnh và nâng tầm công tác đối ngoại đa phương.
Trong thời gian tới, Bộ Ngoại giao sẽ chủ trì xây dựng Đề án tổng thể về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 nhằm cụ thể hóa các mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và nhóm giải pháp được xác định trong Chỉ thị 25, xác định các trọng tâm và biện pháp triển khai theo từng giai đoạn cụ thể, đồng thời theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và định kỳ báo cáo Ban Bí thư, bảo đảm tính thống nhất trong chỉ đạo và điều hành hoạt động đối ngoại đa phương. Các cấp, các ngành cần xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện phù hợp với tình hình của ngành, địa phương, cơ quan mình và chủ động phối hợp chặt chẽ trong triển khai công tác đối ngoại đa phương, tạo sức mạnh tổng hợp và đạt hiệu quả cao.
Lê Hoài Trung
Uỷ viên Trung ương Đảng
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao