Nhỏ Bình thường Lớn

Đường biên giới trên đất liền Việt Nam-Lào: Quá trình đàm phán và ký kết các văn kiện pháp lý

Baoquocte.vn. Ngay sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam-Lào đã nhanh chóng đàm phán giải quyết vấn đề biên giới. Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam-Lào năm 1977 thống nhất nguyên tắc xác lập biên giới phù hợp với luật quốc tế và căn cứ vào tình hình thực tế.
Bộ đội biên phòng bảo dưỡng mốc T4 biên giới Việt Nam - Lào
Bộ đội biên phòng bảo dưỡng mốc T4 biên giới Việt Nam - Lào.

Cương giới được ghi nhận từ lâu đời

Sự giao lưu giữa Lào và Việt Nam, theo Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim có từ thời vua Lý Thái Tông (1028-1054), song theo sử sách Trung Hoa thì mối quan hệ này có từ thời Mai Hắc Đế năm 722.

Cuốn sách đầu tiên ghi nhận cương giới giữa Đại Việt với Lào có lẽ là cuốn Dư Địa chí của Nguyễn Trãi.

Biên giới Việt-Lào dần ổn định và cơ bản không thay đổi cho đến khi Pháp tới Đông Dương. Pháp tổ chức lại hành chính của Trung Kỳ, Ai Lao và Cao Miên, tuỳ tiện điều chỉnh, cắt đất từ xứ này sang xứ khác.

Tỉnh Kon Tum trước kia thuộc Việt Nam được Pháp chuyển cho Ai Lao quản lý từ năm 1895, sau 1905 mới chuyển lại về Việt Nam. Biên giới Việt-Lào, dù chưa được xác định cụ thể, đã là xương sống của hai nước, dựa vào nhau giúp đỡ nhau trong kháng chiến, là biểu tượng của tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt.

Ngay sau khi thống nhất đất nước, hai nước đã nhanh chóng đàm phán giải quyết vấn đề biên giới.

Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam-Lào năm 1977 thống nhất nguyên tắc xác lập biên giới phù hợp với luật quốc tế và căn cứ vào tình hình thực tế, trên cơ sở chấp nhận các đường ranh giới hành chính do thực dân Pháp vẽ và in trên các bản đồ vào thời điểm hai nước giành được độc lập năm 1945 và trước hoặc sau đó một vài năm gần thời điểm đó nhất.

Nỗ lực vượt bậc

Trên cơ sở đó, hai bên đã thoả thuận xong toàn bộ 2.095 km đường biên giới giữa hai nước trên 48 mảnh bản đồ Pháp tỷ lệ 1/100.000, trong đó có 812 km được biên vẽ trên cơ sở kết quả đo đạc tại thực địa (chiếm 38,7%), còn lại 1.282,8 km được biên vẽ trên cơ sở ảnh chụp từ máy bay chưa đo đạc ở thực địa (chiếm 61,3%).

Đây là nỗ lực lớn vì bản đồ của Pháp có tỷ lệ quá nhỏ, cũ, có nhiều chỗ thể hiện không phù hợp với địa hình, nhiều chỗ không chính xác.

Trong 48 mảnh bản đồ, có 7 đoạn đường ranh giới với tổng chiều dài khoảng 4,5 km được thể hiện ở các khu vực chưa có địa hình (địa hình để trắng) và có 8 đoạn chưa vẽ đường biên giới.

Bản đồ của Pháp tái bản nhiều lần, sau mỗi lần tái bản đều có sửa chữa nên các mảnh bản đồ cùng ký hiệu nhưng năm in khác nhau thì có đường ranh giới thể hiện khác nhau.

Trong vòng 15 tháng, hai bên đã hoàn thành giai đoạn hoạch định biên giới quốc gia. Đây là thời gian kỷ lục nếu so với 8 năm đàm phán hoạch định biên giới Việt Nam-Trung Quốc(1991-1999), 6 năm đàm phán hoạch định biên giới Việt Nam-Campuchia (1979-1985).

Đường biên giới Việt Nam-Lào dài hơn, địa hình phức tạp hơn song đã hoàn thành giai đoạn hoạch định trong thời gian sớm nhất. Điều này chỉ có được giữa hai nước anh em có tình hữu nghị đặc biệt, cùng kề vai sát cánh bên nhau trong chiến tranh cũng như hòa bình. Đây là cơ sở cho quá trình phân giới cắm mốc trên thực địa.

Năm 1986, Nghị định thư về việc phân giới và cắm mốc biên giới quốc gia Việt Nam-Lào được ký kết. Tuy nhiên, một số khu vực địa hình hiểm trở chưa thể khảo sát phải tiếp tục tiến hành cho đến 2007 mới kết thúc.

Hai nước lại tiếp tục dự án tăng dày tôn tạo mốc giới, thay thế các mốc cũ cắm trong thời gian 1977-1986 bằng các mốc mới hiện đại và thống nhất toàn bộ hệ thống mốc giới giữa Việt Nam-Trung Quốc, Việt Nam-Lào, Việt Nam-Campuchia.

Biên giới Việt-Lào dài 2.337,459 km được xác định bởi Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ký ngày 18/7/1977, Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia ký ngày 24/1/1986 và Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc giới giữa Việt Nam và Lào ký ngày 16/3/2016 và các văn bản liên quan khác.
Biên giới Việt-Lào đi qua 10 tỉnh biên giới của Việt Nam là Điện Biên, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam và Kon Tum; 10 tỉnh biên giới của Lào là Phongsaly, Luang Prabang, Houaphanh, Xiangkhoang, Bolikhamsai, Khammouan, Savannakhet, Salavan, Sekong và Attapeu. Điểm khởi đầu của đường biên giới ở vị trí ngã ba biên giới Việt Nam-Lào-Trung Quốc và kết thúc ở vị trí ngã ba biên giới Việt Nam-Lào-Campuchia.
Biên giới Việt Nam-Lào: Các văn bản pháp lý và ‘cửa ngõ’ vùng biên

Biên giới Việt Nam-Lào: Các văn bản pháp lý và ‘cửa ngõ’ vùng biên

Biên giới Việt Nam-Lào được xác lập và ghi nhận bằng các văn bản pháp lý song phương, tạo cơ sở quản lý biên giới ...

Ý nghĩa xác lập đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc

Ý nghĩa xác lập đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc

Việc hoàn thành toàn bộ công tác hoạch định, phân giới cắm mốc trên biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc là sự ...