Trong giai đoạn Covid-19, doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã được chuẩn bị tốt hơn nhiều nước trong việc hoàn thành các đơn hàng xuất khẩu. |
Tuy nhiên, thách thức lớn cần giải quyết trong chuỗi cung ứng thời trang tại Việt Nam là làm thế nào để có thể thu hút được các đơn hàng từ các thị trường nhập khẩu lớn như Mỹ và Liên minh châu Âu (EU).
Ngành thời trang và dệt may, một trong những trụ cột xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, đã và đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi Covid-19.
Năm 2020, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may đạt 35,06 tỷ USD, giảm 9,82% so với năm 2019 (38,9 tỷ USD), chưa bằng mức thực hiện của năm 2018 (36,2 tỷ USD).
Trong 2 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất khẩu ngành ước đạt 5,9 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ 2020. Nếu tình hình dịch Covid-19 không diễn biến phức tạp thêm, dự kiến cả năm 2021 kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt khoảng 38 tỷ USD (chưa bằng mức 38,9 tỷ USD của năm 2019).
Tuy nhiên, trong nửa đầu tháng 3, tổng trị giá hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đạt 13,3 tỷ USD, tăng 30% (tương ứng tăng 3,07 tỷ USD) so với kỳ 2 tháng 2/2021, trong đó, nhóm hàng chủ lực là dệt may, tăng 565 triệu USD (tương ứng tăng 79,6%).
Theo Tiến sĩ Majo George, Khoa Kinh doanh và Quản trị, Đại học RMIT Việt Nam, ngành thời trang và dệt may Việt Nam cho thấy khả năng phục hồi tốt suốt từ khi Covid-19 bùng phát đến nay.
Mặc dù nhiều đơn hàng từ Mỹ, EU và các quốc gia khác bị hủy trong giai đoạn bùng phát Covid-19 năm 2020, các nhà sản xuất trong nước đã đa dạng hóa các dòng sản phẩm chuyển sang sản xuất khẩu trang từ vải không dệt, khẩu trang kháng khuẩn và quần áo bảo hộ cho nhân viên y tế, bao gồm cả thiết bị bảo vệ cá nhân công nghệ cao.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp thời trang Việt đã được chuẩn bị tốt hơn trong việc hoàn thành các đơn hàng xuất khẩu so với doanh nghiệp ở Campuchia, Myanmar, Ấn Độ và Indonesia, nơi các biện pháp kiểm soát Covid-19 không mạnh bằng.
Tiến sĩ Majo George cho rằng, thách thức lớn cần giải quyết trong chuỗi cung ứng thời trang tại Việt Nam là làm thế nào để có thể thu hút được đơn hàng từ các thị trường nhập khẩu lớn như Mỹ và EU. Thực tế, đơn hàng quý cuối năm 2020 và đầu 2021 không tăng đáng kể do lệnh phong tỏa vẫn tiếp tục ở một số khu vực tại EU và Mỹ, cùng với đó là thay đổi lối sống của những người tiêu dùng làm việc tại nhà.
Vậy nhìn về góc độ cung ứng, để chuỗi cung cầu không bị đứt gãy, phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch, ngành dệt may cần chuẩn bị gì, đâu là những 'con át chủ bài' mà ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam cần vận dụng vào lúc này?
TG&VN trao đổi với Phó Giáo sư Rajkishore Nayak, Khoa Truyền thông và Thiết kế, Đại học RMIT Việt Nam về vấn đề này.
Phó giáo sư Rajkishore Nayak, Khoa Truyền thông và Thiết kế, ĐH RMIT Việt Nam. (Ảnh: MN) |
Theo ông, đại dịch Covid-19 đã tác động như thế nào đến chuỗi cung ứng hàng dệt may toàn cầu?
Đại dịch đem đến những thách thức chưa từng có cho nhiều ngành, trong đó có thời trang và dệt may. Lĩnh vực này phụ thuộc nhiều vào chuỗi cung ứng tích hợp toàn cầu nên phải đối mặt với những gián đoạn khá lớn.
Lấy châu Âu làm ví dụ, trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 9/2020, sản xuất quần áo ở đây đã giảm 37,4% so với cùng kỳ năm 2019, còn doanh số bán lẻ sụt giảm đáng kể ở mức 43,5%.
Dữ liệu toàn cầu về nhập khẩu thời trang và dệt may của Mỹ và EU - hai thị trường chính cho hàng dệt may và thời trang xuất khẩu của Việt Nam - cho thấy hai thị trường này đã hủy tổng đơn đặt hàng trị giá 16,2 tỷ USD từ tháng 4 đến tháng 6/2020.
Nhiều nhà bán lẻ và sản xuất hàng may mặc toàn cầu đã giảm quy mô hoặc ngừng hoạt động hoàn toàn do nhu cầu giảm đáng kể.
Trong bối cảnh sụt giảm khá lớn như vậy, hậu Covid-19, làm thế nào để ngành dệt may Việt Nam có thể trở lại mạnh mẽ hơn trong tương lai?
Theo tôi, cần có một số giải pháp chính, bao gồm các hỗ trợ từ Chính phủ như nới lỏng rào cản thương mại với các nước nhập khẩu, giảm lãi suất và hỗ trợ tài chính.
Ví dụ, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) đang giúp tăng cường thương mại giữa hai bên. Tương tự, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) đang mở ra cơ hội xuất khẩu mới, chẳng hạn như với Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ, nhờ đó tiết kiệm chi phí và giúp quy trình chuỗi cung ứng linh hoạt hơn.
Hiệp định thương mại tự do với các nước khác có thể giúp ngành dệt may Việt Nam thu hút các thương hiệu toàn cầu mới.
Song song với đó, việc giảm lãi suất và hỗ trợ tài chính của Chính phủ có thể thúc đẩy doanh nghiệp ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả và chất lượng sản phẩm nói chung. Điều này cũng sẽ giúp doanh nghiệp sẵn sàng đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường do các nước nhập khẩu đặt ra hơn, cũng như chủ động hơn trong việc đầu tư vào các dòng sản phẩm đa dạng theo nhu cầu quốc tế.
Là một chuyên gia trong ngành, theo ông, các bên liên quan có thể hợp tác bằng cách nào để đạt mục tiêu?
Ngành thời trang và dệt may nên chuẩn bị kỹ càng để vượt qua mọi rào cản sau đại dịch. Các nhà sản xuất nên hợp tác chặt chẽ với người mua để hiểu và đáp ứng chuyển đổi nhu cầu đang diễn ra trên thị trường thông qua các nền tảng kỹ thuật số đa dạng.
Tất cả các nhà bán lẻ hoạt động tại thị trường địa phương hay toàn cầu đều sẽ tập trung vào hoạt động đa kênh, nơi thương mại điện tử và cửa hàng bán lẻ bổ trợ cho nhau. Khách hàng ở nhiều quốc gia (trong đó có Việt Nam) đã tăng cường sử dụng các nền tảng trực tuyến trong năm 2020 do quy định giãn cách xã hội và phong tỏa.
Xu hướng này tiếp diễn trong quý đầu năm 2021 và sẽ là xu hướng tương lai ngay cả khi cuộc sống trở lại bình thường. Do đó, các nhà sản xuất và bán lẻ nên sử dụng đa kênh để phân phối hàng bán lẻ (bán hàng trực tiếp cũng như trực tuyến).
Đối với các nhà bán lẻ, một trọng tâm chính khác là tìm hiểu kỹ nhu cầu thị trường và tránh thừa hàng tồn kho. Họ nên đặt mua sản phẩm ở thời điểm gần đến mùa tiêu thụ. Hoạt động thu mua nên được thực hiện với số lượng nhỏ và đặc biệt là nên lấy nguồn hàng từ các nhà cung cấp ở gần.
Mối quan hệ giữa người mua và nhà cung cấp cần được tăng cường thông qua giao tiếp hiệu quả để nhu cầu của người tiêu dùng được đáp ứng một cách thích hợp.
Đối với các nhà sản xuất và bán lẻ, đây là thời điểm để nhìn lại hoạt động, thiết kế lại chuỗi cung ứng, tìm kiếm các sản phẩm phù hợp trong tương lai và đầu tư vào nhu cầu của ngày mai.
Việc lập kế hoạch ngắn hạn và dài hạn không chỉ giúp các doanh nghiệp vững vàng trong thời kỳ hậu Covid-19 mà còn giúp họ chuẩn bị ứng phó tốt hơn nếu các tình huống tương tự như đại dịch phát sinh trong tương lai.
Xin cảm ơn ông!
Thực tế, nhu cầu về sản phẩm may mặc ở châu Âu và Mỹ vẫn chưa tăng lên mức mong đợi do kinh doanh bán lẻ vẫn tiếp tục đóng cửa ở một số khu vực. Để giải quyết vấn đề ngắn hạn này, ngành thời trang và dệt may nên tìm thị trường mới cho các sản phẩm hiện có bên cạnh việc khai thác nhu cầu tại chỗ. Hơn nữa, các doanh nghiệp cũng nên đa dạng hóa sang các dòng sản phẩm mà nhu cầu tiêu dùng trên toàn cầu đang tăng cao như khẩu trang, đồ mặc ở nhà, hay quần áo cho hoạt động thể thao, giải trí. Về dài hạn, các doanh nghiệp Việt Nam cần tập trung vào vấn đề phát triển bền vững, công nghệ tiên tiến và tự động hóa. Các yếu tố khác cần xem xét gồm tăng cường năng lực vận hành doanh nghiệp, thu hẹp khoảng cách về cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ kỹ năng của lực lượng lao động và củng cố hình ảnh Việt Nam như một cường quốc xuất khẩu thời trang và dệt may. Chúng ta có thể tham khảo bài học từ Bangladesh, quốc gia cho thấy khả năng hồi phục tốt trước tác động của Covid-19. Nhiều doanh nghiệp dệt vải ở Bangladesh đã hiện đại hóa phương pháp sản xuất để tự chủ về nguyên liệu trong nước. Đây là một điểm yếu lớn của ngành dệt may và thời trang Việt. Cần ưu tiên nâng cấp ngành sản xuất vải với công nghệ mới nhất để Việt Nam có thể tự chủ đầu vào sản xuất. Mặt khác, các nhà sản xuất nên tập trung vào những sản phẩm đang có nhu cầu tiêu thụ trên toàn cầu, đồng thời tạo ra các sản phẩm bền vững, nâng cấp công nghệ và sử dụng các nền tảng kỹ thuật số. Các nhà sản xuất cũng cần chú trọng giảm thiểu chất thải thông qua việc áp dụng mô hình sản xuất tinh gọn và nhanh nhẹn. (theo Tiến sĩ Majo George, Khoa Kinh doanh và Quản trị, Đại học RMIT Việt Nam) |