Hậu Covid-19: Lật lại lịch sử để biết sau đại dịch, điều gì sẽ xảy ra?. (Nguồn: Njbmagazine) |
Ngày hôm nay, trong khi Covid-19 vẫn hoành hành ở những nước nghèo thì các quốc gia giàu có lại đang đứng trước ngưỡng của một đợt bùng nổ kinh tế hậu đại dịch.
Khi việc tiêm chủng đã phát huy tác dụng, số ca nhập viện và tử vong do Covid-19 đều giảm, chính phủ các nước đang dần dỡ bỏ lệnh cách ly tại nhà và nới lỏng những quy định về tiếp xúc nơi công cộng. Nhiều chuyên gia dự báo, nền kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng khoảng 7% trong năm nay, nhanh hơn khoảng 5 điểm phần trăm so với xu hướng trước đại dịch chỉ hơn 2%. Các quốc gia khác cũng có tốc độ tăng trưởng nhanh đáng kinh ngạc.
Những gì sẽ xảy ra tiếp theo? Các ghi chép cho thấy rằng, sau những thời kỳ gián đoạn phi tài chính lớn như chiến tranh hay đại dịch, GDP có xu hướng phục hồi trở lại.
Bên cạnh đó, còn ba thay đổi về cơ bản nữa sẽ tác động tới thế giới. Thứ nhất, khi mọi người muốn ra ngoài và chi tiêu thì sự không chắc chắn hay bấp bênh vẫn sẽ tồn tại trong một thời gian dài. Thứ hai, đại dịch sẽ thúc đẩy người dân và doanh nghiệp thử nghiệm những phương thức sản xuất mới, có thể làm thay đổi, thậm chí đảo lộn cấu trúc của nền kinh tế. Thứ ba, những biến động chính trị thường xảy ra sau đó với hậu quả kinh tế khó lường.
Đầu tư rủi ro, người tiêu dùng tích tiền
Dữ liệu từ những đại dịch đã xuất hiện trong lịch sử cho thấy, trong giai đoạn nguy cấp, phản ứng của mọi người giống như những gì đã diễn ra trong năm vừa qua khi Covid-19 hoành hành, đó là tích lũy tiền khi các cơ hội chi tiêu biến mất và việc đầu tư gặp nhiều rủi ro.
Trong nửa đầu những năm 1870, khi dịch bệnh đậu mùa bùng phát, tỷ lệ tiết kiệm của các hộ gia đình ở Anh đã tăng gấp đôi.
Vào thời điểm diễn ra Thế chiến I, tỷ lệ tiết kiệm ở Nhật Bản cũng tăng hơn hai lần.
Giai đoạn 1919-1920, đợt bùng phát của dịch cúm Tây Ban Nha, người Mỹ đã tích trữ nhiều tiền mặt hơn bất kỳ giai đoạn nào sau đó cho đến tận Thế chiến II.
Khi chiến tranh nổ ra, một lần nữa tiết kiệm lại tăng lên, các hộ gia đình tích lũy thêm số tiền trong giai đoạn 1941-1945 trị giá khoảng 40% GDP.
Lịch sử cũng cho chúng ta thấy những gì mọi người sẽ làm khi cuộc sống trở lại cuộc sống bình thường. Chi tiêu tăng lên khiến cho thị trường lao động phục hồi, nhưng không có nhiều bằng chứng về việc chi tiêu quá mức.
Theo một ước tính của ngân hàng Goldman Sachs, trong giai đoạn 1946-1949, người tiêu dùng Mỹ chỉ chi khoảng 20% số tiền tiết kiệm dư thừa của mình. Khoản chi tiêu tăng thêm đó chắc chắn đã thúc đẩy sự bùng nổ kinh tế sau chiến tranh, dù vậy các báo cáo “tình hình kinh doanh” hàng tháng của chính phủ vào cuối những năm 1940 vẫn chứa đầy nỗi lo về sự suy giảm sắp xảy đến. Và thực tế là nền kinh tế đã đi vào suy thoái trong giai đoạn 1948-49.
Nguồn cung bùng nổ
Sự bùng nổ kinh tế sau đại dịch liên quan đến “phía cung” của nền kinh tế, liên quan đến câu hỏi, hàng hóa và dịch vụ sẽ được sản xuất như thế nào và ở đâu?
Với những thay đổi về kinh tế - xã hội sau đại dịch và những yêu cầu của một trạng thái bình thường mới, một số người sớm thích ứng, sẵn sàng thử những cách kiếm tiền mới. Thậm chí, các nhà sử học tin rằng, “Cái chết đen - nỗi ám ảnh bệnh dịch hạch xảy ra ở châu Âu và châu Á, mà đỉnh điểm là giai đoạn 1346-1351” đã khiến người châu Âu ưa thích phiêu lưu mạo hiểm hơn.
Một nghiên cứu của Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia Mỹ (NBER) công bố vào năm 1948 cho thấy, số lượng các công ty khởi nghiệp đã bùng nổ kể từ năm 1919, sau dịch cúm Tây Ban Nha.
Hiện nay, tại những quốc gia giàu có, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới một lần nữa lại bùng lên, khi các doanh nhân và nhà đầu tư đang tìm cách lấp đầy khoảng trống trên thị trường.
Một số nhà kinh tế đã rút ra được mối liên hệ giữa đại dịch và một số thay đổi khác ở phía cung của nền kinh tế. Chẳng hạn, khi chủ doanh nghiệp buộc phải tìm cách tốt nhất để vừa sản xuất, kinh doanh mà vẫn đảm bảo hạn chế sự lây lan của dịch bệnh. Khi bài toán ứng dụng công nghệ để giảm thiểu số lao động được đặt ra, các robot trở thành lựa chọn tối ưu, vì chúng không bao giờ nhiễm bệnh.
Các chuyên gia IMF đã tiến hành nghiên cứu về một số đợt bùng phát dịch bệnh gần đây, bao gồm cả Ebola và SARS, họ phát hiện ra rằng, “các trận đại dịch đã thúc đẩy việc ứng dụng robot, đặc biệt là khi dịch bệnh tác động nghiêm trọng đến sức khỏe con người và có khả năng gây ra suy thoái kinh tế”.
Những năm 1920 cũng là thời kỳ tự động hóa phát triển mạnh ở Mỹ, đặc biệt công việc điều hành điện thoại – đã trở thành một trong những công việc phổ biến nhất của các phụ nữ trẻ Mỹ vào đầu những năm 1900.
Tuy nhiên, tự động hóa có lấy đi việc làm của con người hay không lại là một vấn đề khác. Và một số nghiên cứu cho thấy rằng, trên thực tế công nhân đã làm việc tốt hơn sau đại dịch.
Một nghiên cứu của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chi nhánh San Francisco (FRB SF) công bố hồi năm ngoái cho thấy, mức lương thực tế có xu hướng tăng lên.
Trong một số trường hợp, hiện tượng này xảy ra thông qua cơ chế: bệnh dịch làm nhiều người lao động thiệt mạng khiến những may mắn người sống sót có vị thế tốt hơn khi tiến hành thương lượng tiền lương.
Trang mới cho sự bình đẳng
Tuy nhiên, trong những trường hợp khác, lương tăng là hệ quả của những thay đổi chính trị – bài học lớn thứ ba từ sau các thời kỳ bùng nổ kinh tế trong lịch sử. Khi mà tất cả mọi người phải gánh chịu một tai họa nào đó, thì những người thuộc tầng lớp lao động dường như trở nên nhạy cảm hơn.
Điều này có vẻ cũng đang xảy ra trong đại dịch Covid-19 hiện nay, khi các nhà hoạch định chính sách trên toàn thế giới dường như ít quan tâm đến việc giảm nợ công hoặc ngăn chặn lạm phát, hơn là những nỗ lực nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Một nghiên cứu mới của Trường Kinh tế London (LSE) cũng phát hiện ra rằng, Covid-19 đã khiến mọi người trên khắp châu Âu trở nên ác cảm hơn với sự bất bình đẳng.
Những áp lực kiểu như vậy trong một số trường hợp trong quá khứ đã bùng nổ thành biến động chính trị. Các đại dịch trở thành chất xúc tác giúp phơi bày và làm nổi bật tình trạng bất bình đẳng vốn đã bị dồn nén từ lâu trong xã hội, khiến những người ở bên phía thất thế trong cuộc mặc cả phải tìm cách lập lại thế cân bằng.
Theo một nghiên cứu, thực tế dịch Ebola, trong giai đoạn 2013-2016, đã làm tăng 40% bạo lực dân sự ở Tây Phi. Nghiên cứu gần đây của IMF xem xét ảnh hưởng của 5 đại dịch, trong đó có Ebola, SARS và Zika ở 133 quốc gia kể từ năm 2001, đã phát hiện ra rằng, dịch bệnh đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể tình trạng bất ổn xã hội.
Các nhà nghiên cứu IMF còn cho biết: “Có lý do để tin rằng, khi đại dịch qua đi, tình trạng bất ổn lại có thể tái xuất hiện ở những địa điểm mà nó từng tồn tại trước kia. Bất ổn xã hội dường như sẽ lên đến đỉnh điểm hai năm sau khi đại dịch kết thúc. Nên hãy tận hưởng sự bùng nổ kinh tế sắp tới trong thời gian nhiều nhất có thể. Bởi có thể không lâu sau đó, tình hình mới lại sẽ có những bất ổn mới.