Trang imf.org của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) ngày 10/3 đăng báo cáo đánh giá thường niên mới nhất về nền kinh tế Việt Nam, trong đó chỉ ra những cải cách trong các lĩnh vực sẽ giúp Việt Nam gặt hái được nhiều lợi ích hơn từ thành công trong cuộc chiến chống Covid-19.
Báo Nga: Khi nào Việt Nam có thể công bố hết dịch Covid-19?. (Nguồn: BPT) |
Những bước đi quyết liệt, hiệu quả
Theo IMF, bất chấp đại dịch Covid-1, nền kinh tế Việt Nam vẫn trụ vững với mức tăng trưởng 2,9% trong năm 2020 (tốc độ tăng trưởng cao trên thế giới) và dự kiến sẽ tăng trưởng 6,5% trong năm 2021 nhờ các nền tảng kinh tế mạnh mẽ, các biện pháp kiểm soát dịch bệnh Covid-19 quyết liệt và sự hỗ trợ đúng đối tượng của chính phủ.
Đại dịch Covid-19 ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế, nhưng Việt Nam đã có những bước đi quyết liệt để hạn chế suy thoái kinh tế và y tế.
Việc áp dụng nhanh chóng các biện pháp kiểm soát, kết hợp với truy tìm dấu vết tích cực, xét nghiệm đúng đối tượng và cách ly các ca nghi nhiễm Covid-19 đã giúp tỷ lệ lây nhiễm và tử vong ở mức rất thấp trên cơ sở bình quân đầu người.
Việc kiểm soát thành công, cùng với sự hỗ trợ chính sách kịp thời cũng giúp hạn chế suy thoái kinh tế và quy mô của gói ứng phó khẩn cấp. Năm 2020, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng 2,9%, là một trong những tốc độ tăng trưởng cao nhất trên thế giới nhờ các hoạt động trong nước sớm phục hồi và hoạt động xuất khẩu mạnh mẽ, đặc biệt là xuất khẩu điện tử công nghệ cao khi mọi người trên thế giới làm việc tại nhà.
Việt Nam bước vào đại dịch Covid-19 với các nền tảng kinh tế cơ bản và vùng đệm chính sách vững chắc dù vẫn còn một số thách thức về cơ cấu cần được giải quyết.
Kể từ khi thực hiện chính sách Đổi mới theo định hướng thị trường vào năm 1986, Việt Nam đi từ một trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành một nước có thu nhập trung bình thấp.
Việc chuyển đổi cơ cấu từ nông nghiệp sang nền kinh tế hiện đại dựa trên hoạt động sản xuất nhờ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và “không để ai bị bỏ lại phía sau” đã giúp cải thiện mức sống.
Đầu tư nước ngoài mạnh mẽ và thặng dư tài khoản vãng lai đã tăng cường khả năng chống chịu với nhân tố bên ngoài. Hệ thống ngân hàng được cải thiện đáng kể, với khả năng sinh lời, thanh khoản cao hơn và ít nợ xấu hơn trước đây.
Tin liên quan |
Tin bất động sản mới nhất: Hà Nội ban hành Quy hoạch đô thị sông Hồng vào tháng 6, Bình Định phạt dự án nghìn tỷ; TP. HCM điều chỉnh quy hoạch 2040 |
Việt Nam cũng đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc tăng cường khả năng tài chính công trước đại dịch Covid-19. Việc xây dựng các vùng đệm tài khóa, đối ngoại và tài chính trước khi xảy ra đại dịch Covid-19 cũng giúp Việt Nam có khả năng chống đỡ cú sốc tốt hơn.
Lời khuyên từ IMF
Tuy nhiên, bất chấp những kết quả thuận lợi trên và những cải cách cơ cấu hiện nay, vẫn còn nhiều dư địa để thúc đẩy năng suất và nâng cao khả năng phục hồi kinh tế.
Năm 2021, các chính sách kinh tế vĩ mô cần được tiếp tục hỗ trợ để đảm bảo phục hồi một cách bền vững và toàn diện. Thị trường lao động Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề trong quý II/2020, đặc biệt là lao động phi chính thức có quy mô khá lớn và hạn chế trong tiếp cận bảo hiểm xã hội. Việc làm phi chính thức đã được phục hồi, nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn.
Các chính sách trong ngắn hạn cần tập trung vào việc duy trì việc làm trong khi thúc đẩy sự phân bổ lại các nguồn lực.
Cụ thể, việc này có thể được hiện thực hóa nhờ sử dụng trợ cấp tuyển dụng và các chính sách thị trường lao động tích cực để khuyến khích đào tạo việc làm. Mạng lưới an sinh xã hội hiện nay cần được mở rộng phạm vi bao phủ và nâng cao hiệu quả.
Theo thời gian, các chính sách nên hướng tới mục tiêu giảm thiểu lao động phi chính thức bằng cách cải thiện kỹ năng lao động và giảm chi phí thuê/sa thải lao động chính thức, đồng thời khuyến khích hợp thức hóa doanh nghiệp.
Sự phục hồi bền vững cũng phụ thuộc vào việc đảm bảo ổn định tài chính. Các doanh nghiệp ở Việt Nam bước vào cuộc khủng hoảng với bảng cân đối kế toán tương đối yếu, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm ưu thế trong các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Đại dịch Covid-19 đã làm suy giảm khả năng thanh toán và thanh khoản, làm gia tăng lo ngại về sự ổn định tài chính thông qua các rủi ro ngân hàng.
Các chính sách về tiền tệ, tài khóa và tài chính do chính phủ thực hiện đã giúp giảm thiểu nguy cơ gia tăng các vụ vỡ nợ và sa thải hàng loạt của các công ty trong thời gian trước mắt. Những hỗ trợ như vậy cần nhằm đúng đối tượng hướng đến các doanh nghiệp kém thanh khoản nhưng khả thi cho đến khi khả năng phục hồi vững chắc hơn.
Tiếp tục giám sát chặt chẽ cùng với những nỗ lực giải quyết các khoản vay có vấn đề, tăng cường khuôn khổ quản lý và giám sát kịp thời sẽ giúp giải quyết các rủi ro của hệ thống tài chính.
Cần tiến hành cải cách quyết liệt hơn để tận dụng tối đa tiềm năng tăng trưởng to lớn của Việt Nam. Điều này đòi hỏi phải giải quyết các nguyên nhân khiến năng suất thấp.
Ưu tiên cải thiện môi trường kinh doanh và đảm bảo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua cải cách hướng tới giảm gánh nặng pháp lý cho các doanh nghiệp, cải thiện khả năng tiếp cận các nguồn lực, tăng cường quản trị và tiếp cận công nghệ, đổi mới và giảm chênh lệch kỹ năng.
Những cải cách trong các lĩnh vực này cũng sẽ giúp Việt Nam gặt hái được nhiều lợi ích hơn từ việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu trong thế giới sau đại dịch Covid-19.