Kỳ 1: Từ cơn sốt vàng đen đến kế hoạch Marshall
Kế hoạch Marshall chấm dứt vào năm 1951 do Đảng Cộng hòa Mỹ, phe phản đối kế hoạch này, thắng cử trong cuộc bầu cử Quốc hội Mỹ năm 1950. Tuy nhiên, những thành quả mà kế hoạch này đạt được là không thể phủ nhận: Các nước Tây Âu chịu ảnh hưởng kinh tế - chính trị mạnh mẽ của Washington tạo nền tảng cho liên minh xuyên Đại Tây Dương sau này. Chính sách ngoại giao “dung dưỡng” đồng minh mang lại cho Mỹ vị trí nhà sản xuất dầu lớn hàng đầu thế giới ngoài Liên Xô với gần 50% thị phần cung ứng thị trường dầu toàn cầu. Tuy nhiên, ưu thế này không duy trì được lâu do sự xuất hiện của những nhân tố mới cũng như chính sách sai lầm của Washington.
Hội nghị OPEC năm 1962. (Nguồn: OPEC) |
Bỏ cuộc vì... sốc
Kỷ nguyên cạnh tranh toàn cầu về dầu mỏ có nhiều diễn biến mới với sự ra đời của Tổ chức các Quốc gia Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC). Các quốc gia Ả rập vốn phụ thuộc nhiều vào nguồn thu xuất khẩu dầu nay đang ngày càng bị ảnh hưởng bởi việc giảm giá dầu của phần lớn các công ty phương Tây và những hạn ngạch nhập khẩu dầu từ Washington khiến các nguồn cung dầu của thế giới ế ẩm. Tháng 8/1960, các nước phương Tây một lần nữa đồng loạt giảm giá dầu mà không tham vấn các nước xuất khẩu. Để bảo vệ giá dầu, một tháng sau, các quốc gia Ả rập chiếm 80% lượng dầu xuất khẩu thế giới thành lập OPEC. Lúc ấy OPEC chưa gây được nhiều ảnh hưởng nên Washington cũng không mấy quan tâm đến “đối thủ tiềm tàng” này.
Rồi cuộc chiến sáu ngày giữa Israel và Ai Cập, Syria, Jordan xảy ra vào tháng 6/1967. Ngay ngày hôm sau, các Bộ trưởng dầu mỏ Ả rập kêu gọi cấm vận đối với các quốc gia muốn hỗ trợ Israel. Nước Mỹ không bị ảnh hưởng nhiều từ lệnh cấm vận. Tuy nhiên đây vẫn là lần đầu tiên các cường quốc dầu mỏ Ả rập chung tay sử dụng con bài dầu mỏ để gây áp lực chính trị.
Tháng 4/1971, OPEC tạo ra bước ngoặt trong việc tăng cường ảnh hưởng quốc tế của mình: các quốc gia Ả rập buộc các công ty dầu mỏ nước ngoài phải có những ràng buộc riêng trong việc tiếp cận nguồn dầu ở Trung Đông, tiêu biểu là các công ty sản xuất dầu ở Vịnh Ba Tư sẽ ký thỏa thuận Tehran (1971) trong khi đó các đồng nghiệp của họ ở Địa Trung Hải lại phải ký thỏa thuận Tripoli (1971). Kết quả là, đến cuối những năm 1970, các công ty dầu quốc tế chỉ có thể tiếp cận khoảng 7% trữ lượng dầu thế giới mà không có ràng buộc gì, so với khoảng 87% hồi những năm 1960. Sản lượng sản xuất dầu của Mỹ cũng bị giảm khoảng 45% trong vòng ba thập kỷ. Đối mặt với khó khăn đó, năm 1973, Tổng thống Mỹ Richard Nixon tuyên bố kết thúc chương trình hạn ngạch nhập khẩu dầu từ năm 1959, cùng với đó là sự kiểm soát giá dầu để chống lạm phát.
Hai năm sau, các nền kinh tế phụ thuộc vào dầu mỏ thực sự được “nếm trải” sức mạnh của OPEC khi cuộc chiến giữa Syria, Ai Cập và Israel nổ ra vào tháng 10/1973. Khác với lần trước, chính quyền Nixon công khai viện trợ 2,2 tỷ USD cho đồng minh Israel khiến OPEC phản ứng bằng một lệnh cấm xuất khẩu dầu đến các quốc gia hỗ trợ cho Israel. Lệnh cấm vận lần này đã tạo lên một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng với cấp độ toàn cầu: nguồn cung dầu thế giới giảm 14%, các nền kinh tế phương Tây phụ thuộc vào dầu mỏ, Mỹ và Nhật Bản thực sự hoảng sợ về tình trạng thiếu dầu. Giá dầu thế giới tăng cao đột ngột và gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới những năm 1973-1975. Tháng 12/1975, Tổng thống Gerald Ford ký Đạo luật Chính sách và Bảo tồn Năng lượng - đánh dấu việc Mỹ rút khỏi cuộc đua xuất khẩu dầu thô do lo ngại nền kinh tế có thể đối mặt với những cú sốc tương tự như thời kỳ 1973.
Năm 1974, bằng chiến lược ngoại giao con thoi, Ngoại trưởng Henry Kissinger đã giúp kết thúc cuộc chiến Israel - Ai Cập, đồng thời giúp bãi bỏ lệnh cấm vận. Tuy nhiên, các nước Ả rập cũng buộc Mỹ phải nhượng bộ trong vấn đề Israel - Syria. Các nền kinh tế thế giới đã “ngấm đòn” sau cuộc khủng hoảng 1973, họ nhận thấy cần có sự hợp tác cùng phối hợp hành động trong tình trạng khẩn cấp về nguồn cung dầu. Do đó Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) được thành lập. Giới chức các nước phát triển cũng gặp nhau trong một hội nghị thượng đỉnh ở Pháp năm 1975 để bàn về vấn đề kinh tế và phụ thuộc năng lượng toàn cầu. Diễn đàn này ban đầu được gọi là Nhóm 6 nước (G6) giờ trở thành G7.
Nhận thấy nguy cơ của việc phụ thuộc vào nguồn cung dầu mỏ, năm 1978, chính quyền Tổng thống Jimmy Carter tiến hành cải cách Bộ Năng lượng, tăng cường dự trữ nguồn năng lượng cũng như thúc đẩy tìm nguồn nhiên liệu thay thế. Tháng 10/1978, cách mạng Iran nổ ra với sự sụp đổ của chế độ thân Mỹ. Tổng thống Carter phản ứng bằng cách cắt đứt quan hệ ngoại giao và cấm vận xuất khẩu dầu đối với Iran. Động thái này đẩy giá dầu thế giới tăng gấp đôi vào năm 1979. Để ứng phó với cuộc khủng hoảng mới đang trên bờ vực bùng nổ, Tổng thống Carter ký Đạo luật An ninh Năng lượng nhằm đưa ra nhiều ưu đãi cho những nguồn năng lượng thay thế như địa nhiệt, năng lượng sinh khối hay năng lượng mặt trời. Nước Mỹ tiến vào thời kỳ đa dạng hóa về năng lượng.
Sự trở lại không mới
Năm 1980, cuộc chiến tám năm Iraq - Iran diễn ra. Mặc dù tuyên bố trung lập, Washington vẫn làm mới quan hệ ngoại giao với Iraq vốn bị cắt đứt từ năm 1967. Cuộc chiến Iraq - Iran khiến thị trường dầu toàn cầu thiếu hụt khoảng 4 triệu thùng/ngày. Năm 1983, chính quyền Tổng thống Mỹ Ronald Reagan tăng cường sự hiện diện quân sự ở vùng Vịnh Ba Tư để giúp bảo vệ các cơ sở dầu mỏ và các chuyến hàng chuyển đến đồng minh của mình. Sự kiện này đánh dấu quá trình lún sâu vào chiến trường Trung Đông của Washington mà nguyên nhân là vì dầu mỏ.
Tàu chở dầu của Mỹ cập cảng Rotterdam (Hà Lan) sau khi lệnh cấm xuất khẩu dầu mỏ của Mỹ được dỡ bỏ. (Nguồn: AFP) |
Mười năm sau, chiến tranh vùng Vịnh nổ ra giữa Iraq và Kuwait do tranh cãi về việc khai thác dầu. Tổng thống George H.W.Bush (cha) tuyên bố hành động của Iraq tạo ra mối đe dọa kinh tế đối với quốc gia đang phải nhập khẩu một nửa nhu cầu dầu mỏ như Mỹ. Mỹ đã tiên phong triển khai quân đến Vịnh Ba Tư và được các quốc gia phụ thuộc vào nhập khẩu dầu từ Trung Đông như Nhật Bản ủng hộ và cung cấp kinh phí. Chính quyền Bush cũng sử dụng chính sách làm sốc giá dầu thế giới khi đưa ra thị trường 34 triệu thùng dầu từ kho dự trữ chiến lược của mình. Tuy nhiên kết quả của cuộc chiến tốn kém nhất thế giới này đã tiêu tốn của Washington 102 tỷ USD. Kể từ đây, nước Mỹ dưới thời cha con Tổng thống Bush rơi vào hố sâu nợ nần do chiến tranh, nền kinh tế suy yếu và mất dần uy tín.
Cuộc nội chiến Libya nổ ra và dần lan sang Ai Cập và Tunisia vào tháng 2/2011 khiến thị trường dầu mỏ lại biến động. Giá dầu thế giới tăng vọt lên khoảng 10%. Chính sách năng lượng của Mỹ lúc này đi kèm với chính sách đối ngoại khôn khéo hơn. Washington sẵn sàng đưa ra thị trường 30 triệu thùng dầu từ kho dự trữ chiến lược trong hơn 30 ngày để bù đắp phần nào cho sản lượng dầu thế giới bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến Libya. Kế đến, IEA cũng bù đắp thêm 30 triệu thùng dầu giúp ổn định thị trường ngay sau khi các nước OPEC không đạt được đồng thuận trong việc tăng sản lượng.
Nhận thấy không thể đứng ngoài cuộc đua được nữa: tháng 12/2015, Quốc hội Mỹ cho phép dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu dầu thô kéo dài gần bốn thập kỷ. Dường như ngay lập tức, các lô hàng dầu thô, dầu đá phiến của Mỹ cập cảng châu Âu cho dù quốc gia này vẫn phải nhập khẩu dầu. Động thái này được đánh giá là mang nhiều ý nghĩa chính trị. Các nước OPEC cho rằng về bản chất nước Mỹ “vẫn là nước nhập khẩu dầu”, do đó dầu thô Mỹ trên thị trường quốc tế không có tác động nhiều. Trong khi đó, nhiều ý kiến ca ngợi quyết định mới của Washington sẽ giúp tạo việc làm, đảm bảo an ninh dầu mỏ trong nước và ổn định giá dầu thế giới vì góp phần bù vào lượng dầu sụt giảm do bất ổn ở Trung Đông.
Gần 40 năm sau khi Mỹ rút khỏi cuộc cạnh tranh, cả thế giới đang chờ xem, nước này sẽ vận dụng ngành xuất khẩu dầu mỏ hơn 150 năm kinh nghiệm của mình như thế nào để tác động đến tình hình kinh tế - chính trị thế giới.