Cách tiếp cận ngày càng thận trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô là lý do chính giúp Trung Quốc tránh được tình trạng lạm phát phi mã trong hai năm qua. (Nguồn: Getty Images) |
Theo tác giả Zhang Jun* trong bài viết mới đây trên The Japan Times, việc Trung Quốc không vội vã hành động khi nền kinh tế nước này đứng trước áp lực suy thoái đã khiến các nhà quan sát nước ngoài cũng như công chúng trong nước bối rối.
Không vội vã hành động
Tổng cầu của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới đã suy yếu đáng kể trong ba năm qua. Bên cạnh những ảnh hưởng từ chính sách chống Covid-19, quốc gia vốn được cho là công xưởng của thế giới này còn bị đè nặng bởi nhu cầu toàn cầu sụt giảm. Tháng 7/2023, xuất khẩu giảm 14,5%, trái ngược hoàn toàn với mức tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ 17,2% được ghi nhận vào tháng 7/2022.
Trước những áp lực suy thoái này, quyết định của chính phủ không công bố gói kích thích lớn như nhiều người dự đoán đã khiến các nhà đầu tư nước ngoài phải rời bỏ thị trường và các nhà quan sát vô cùng bối rối.
Trong khi các nhà lãnh đạo chắc chắn nhận thức được tình trạng giảm sút của nền kinh tế, họ có thể ước tính rằng, nguy cơ của việc tung ra gói cứu trợ còn tệ hơn là “án binh bất động”. Hoặc có lẽ họ tin tưởng hơn vào khả năng phục hồi của nền kinh tế trong nước trước suy thoái kinh tế toàn cầu và tin nền kinh tế sẽ tự phục hồi nhanh chóng.
Trung Quốc dường như đã chọn không thực hiện thêm hành động nào. Trên thực tế, Bắc Kinh hiện đang phải đối mặt với những rào cản đáng kể đối với bất kỳ sự can thiệp kinh tế bổ sung nào.
Việc còn vướng các khoản nợ lớn đã khiến Trung Quốc không có nhiều cơ hội để hành động. Hơn nữa, cạnh tranh địa kinh tế ngày càng khốc liệt đang đặt ra những thách thức chưa từng có mà nước này phải đối mặt trong 40 năm qua.
Chọn lối đi riêng
Do đó, Trung Quốc đã áp dụng cách tiếp cận ngày càng thận trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô. Chính sách tiền tệ là một trường hợp thú vị. Ví dụ, khi đại dịch Covid-19 bùng phát vào tháng 3/2020, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã ngay lập tức cắt giảm lãi suất xuống gần bằng 0.
Ngược lại, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) chỉ hạ lãi suất 0,2 điểm phần trăm. Tương tự, trong khi Fed đã tăng lãi suất nhanh chóng để đối phó với lạm phát gia tăng, tăng lãi suất thêm 5 điểm phần trăm kể từ tháng 3/2022, thì PBOC theo đuổi một loạt đợt cắt giảm lãi suất ở ngưỡng nhỏ để đáp ứng tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và nhu cầu giảm.
Cách tiếp cận này cũng là lý do chính giúp Trung Quốc tránh được tình trạng lạm phát phi mã trong hai năm qua. Điều này đã được làm rõ trong bài phát biểu hồi tháng 4 của cựu Thống đốc PBOC Yi Gang trong chuyến thăm Viện Kinh tế quốc tế Peterson ở Washington, Mỹ.
Trong bài phát biểu của mình, ông Yi nhấn mạnh, việc PBOC tuân thủ “nguyên tắc suy giảm”, có nghĩa là các ngân hàng trung ương nên kiềm chế thực hiện các hành động quyết liệt trong những trường hợp không chắc chắn.
Mặc dù khái niệm nổi tiếng này lần đầu tiên được nhà kinh tế học William Brainard của Đại học Yale đưa ra vào năm 1967, nhưng bài phát biểu của ông Yi đã đưa ra những hiểu biết sâu sắc có giá trị về sự thay đổi trong tư duy chính sách kinh tế của Trung Quốc trong những năm gần đây.
Về lý thuyết, một chính sách tiền tệ thận trọng hơn có thể điều chỉnh tốt hơn các biện pháp ngắn hạn và mục tiêu dài hạn. Để đạt được mục tiêu này, các ngân hàng trung ương nên đặt lãi suất thực càng gần với tốc độ tăng trưởng sản lượng tiềm năng càng tốt. Công trình tiên phong của nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Edmund S. Phelps về tỷ lệ tiết kiệm theo quy tắc vàng minh họa lợi ích của phương pháp này.
Bài phát biểu của ông Yi phần nào phản ánh lối suy nghĩ hiện tại và phong cách chính sách đã thay đổi của các nhà hoạch định chính sách hàng đầu Trung Quốc. Điều này giúp giải thích tại sao nền kinh tế số 2 thế giới trở nên ít biến động hơn trong những năm gần đây.
Với việc giảm bớt các chính sách phản chu kỳ, Trung Quốc đã cố gắng duy trì tăng trưởng ngay cả khi nhu cầu không tăng đột biến. Điều này có thể phù hợp với kế hoạch phát triển của chính phủ, nhằm giảm thiểu chi phí khổng lồ liên quan việc đạt được mức tăng trưởng không cân bằng, chẳng hạn như sự gia tăng nhanh chóng các rủi ro tài chính ngắn hạn.
Nỗ lực “giảm thiểu rủi ro”
Việc Trung Quốc rời bỏ chính sách kinh tế vĩ mô tích cực có thể là do nước này nhận thức được nguy cơ do họ đã đạt đến ngưỡng quan trọng về rủi ro hệ thống tài chính vài năm trước.
Khi đại dịch Covid-19 bùng phát vào tháng 3/2020, Fed ngay lập tức cắt giảm lãi suất xuống gần bằng 0. Ngược lại, PBOC chỉ hạ lãi suất 0,2 điểm phần trăm. (Nguồn: Shutterstock) |
Do đó, Bắc Kinh đã phát động nỗ lực “giảm thiểu rủi ro” toàn diện vào năm 2016. Các nhà hoạch định chính sách đã áp dụng giảm thiểu rủi ro làm nguyên tắc chỉ đạo, chuyển từ các chính sách kinh tế vĩ mô tích cực sang cách tiếp cận thận trọng hơn.
Để “giảm thiểu rủi ro” và giải quyết tình trạng tài chính hóa quá mức của nền kinh tế thực, Trung Quốc đã khởi xướng một làn sóng can thiệp tài chính có mục tiêu và giảm đòn bẩy tài chính, kiểm soát ngành quản lý tài sản, tiến hành điều chỉnh trong các lĩnh vực tài chính và bất động sản vốn sử dụng đòn bẩy tài chính cao.
Ngày nay, một phần rủi ro và bất ổn đối với nền kinh tế Trung Quốc hay bất kỳ quốc gia nào cũng đều xuất phát từ áp lực bên ngoài. Hai thập niên trước, khi nền kinh tế nước này còn tương đối nhỏ và có tỷ giá hối đoái cố định, chính sách trong nước phần lớn được cách ly khỏi những ảnh hưởng bên ngoài.
Nhưng nền kinh tế Trung Quốc đã trở nên quá lớn và mối quan hệ của nó với các nền kinh tế khác đã thay đổi đáng kể, khiến Bắc Kinh phải áp dụng cách tiếp cận thận trọng hơn để đối phó với tình huống không chắc chắn. Ví dụ, PBOC hiện phải theo dõi chặt chẽ những thay đổi trong chênh lệch lãi suất giữa Mỹ và Trung Quốc và đánh giá tác động tiềm tàng đối với thị trường vốn cũng như tỷ giá hối đoái đồng NDT.
Tuy nhiên, việc Trung Quốc rời bỏ chính sách kinh tế vĩ mô tích cực không có gì đáng ngạc nhiên. Các chính sách giảm thiểu rủi ro có thể đã tỏ ra hiệu quả trong việc ngăn chặn khủng hoảng tài chính hoặc nợ, nhưng đại dịch và các chính sách liên quan đến Covid-19 sau đó đã cản trở khả năng tái cân bằng và phục hồi của nền kinh tế, dẫn đến nhu cầu giảm thêm.
Đưa tổng cầu trở lại mức trước đại dịch là rất quan trọng để thúc đẩy quá trình phục hồi kinh tế của Trung Quốc. Để đạt được mục tiêu này, các chính sách tài chính và tiền tệ của quốc gia Đông Bắc Á có thể chủ động hơn do các chính sách giảm thiểu rủi ro đã được áp dụng trong một thời gian dài.
Trong khi các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với một hành động cân bằng mong manh, thì nguy cơ suy thoái kéo dài ngày càng tăng cho thấy sự cần thiết phải tìm ra giải pháp hiệu quả hơn cho những thách thức cấp bách mà nền kinh tế Trung Quốc có thể phải đối mặt.
Nhưng quốc gia này vẫn có thể làm nhiều hơn nữa để tái cân bằng nền kinh tế của mình, bằng cách cam kết thực hiện cải cách cơ cấu, loại bỏ các rào cản gia nhập và mở cửa các lĩnh vực hiện đang bị đóng cửa đối với cạnh tranh nước ngoài - như giáo dục, đào tạo, tư vấn và chăm sóc sức khỏe. Bắc Kinh cũng có thể tạo ra nhiều cơ hội thị trường cho khu vực tư nhân và tiến gần hơn đến việc đạt được mục tiêu ổn định kinh tế lâu dài.
* Ông Zhang Jun hiện là Trưởng Khoa Kinh tế - Đại học Phúc Đán, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu kinh tế Trung Quốc - tổ chức tư vấn có trụ sở tại Thượng Hải.