Phát triển thị trường carbon mang lại nhiều lợi ích vĩ mô và vi mô, trước mắt và lâu dài, mang tầm quốc gia và quốc tế. (Nguồn: Unsplash) |
Tín chỉ carbon là chứng nhận đại diện cho quyền phát thải ra một tấn carbon dioxide (CO2) hoặc khí nhà kính khác được quy đổi tương đương một tấn CO2 (ký hiệu là CO2tđ). Một tấn CO2tđ được xem là một tín chỉ carbon. Đây là đơn vị mua bán trên thị trường carbon hay thị trường tín chỉ carbon. Tín chỉ carbon hay định mức carbon được coi như loại giấy phép cho phép chủ sở hữu thải ra một lượng khí CO2 nhất định.
Nhu cầu tất yếu - xu hướng toàn cầu
Thị trường tín chỉ carbon bắt nguồn từ Nghị định thư Kyoto của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, thông qua vào năm 1997 và quy định cụ thể tại điều sáu Thỏa thuận Paris năm 2015. Theo đó, các quốc gia phát triển có nghĩa vụ giảm phát thải khí nhà kính, bằng cách giảm phát thải trực tiếp, hoặc mua lại các chứng chỉ giảm phát thải từ các quốc gia khác.
Từ đó, trên thế giới xuất hiện loại hàng hóa mới là các chứng chỉ giảm/hấp thụ phát thải khí nhà kính. Giao dịch mua bán, trao đổi carbon, hình thành nên thị trường carbon hay thị trường tín chỉ carbon.
Sau Nghị định thư Kyoto, thị trường carbon phát triển mạnh tại các quốc gia châu Âu, châu Mỹ và cả châu Á. Có hai loại thị trường chính. Một là, thị trường carbon bắt buộc mà việc mua bán carbon dựa trên cam kết của các quốc gia trong Công ước khung Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) để đạt được mục tiêu cắt giảm khí nhà kính. Thị trường này mang tính bắt buộc và chủ yếu dành cho các dự án trong cơ chế phát triển sạch (CDM), Cơ chế phát triển bền vững (SDM) hoặc đồng thực hiện (JI).
Hai là, thị trường carbon tự nguyện dựa trên cơ sở hợp tác thỏa thuận song phương hoặc đa phương giữa các tổ chức, công ty hoặc quốc gia. Bên mua tín chỉ tham gia vào các giao dịch trên cơ sở tự nguyện đáp ứng các chính sách về môi trường, xã hội và quản trị doanh nghiệp (ESG) để giảm dấu chân carbon.
Hiện trên thế giới có 58 quốc gia phát triển thị trường carbon, 27 quốc gia áp dụng thuế carbon, trong đó, một số quốc gia áp dụng cả hai. Các quốc gia này xây dựng sàn giao dịch tín chỉ carbon và có nhiều giao dịch, nguồn thu về rất lớn, tạo xu hướng cho các nước chưa tham gia thị trường.
Đáng kể nhất, tại châu Âu có sàn giao dịch EU Emissions Trading System (EU ETS). Từ tháng 10/2023, EU đánh thuế carbon với sáu loại hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài có nguy cơ ô nhiễm cao là: sắt thép, xi măng, phân bón, nhôm, điện và hydro. Đây là những lĩnh vực chiếm tới 94% lượng khí thải công nghiệp của EU. Các nhà nhập khẩu sẽ phải báo cáo lượng khí thải có trong hàng hóa nhập khẩu, nếu lượng khí thải này vượt quá tiêu chuẩn của EU thì sẽ phải mua “tín chỉ carbon” theo mức giá carbon hiện nay tại EU.
Nhật Bản có sàn Japan Carbon Credit Trading Scheme (J-Credits) khai trương ngày 11/10/2023 trên sàn chứng khoán Tokyo (TSE). Hiện có 188 công ty và tổ chức Nhật Bản tham gia mua bán tín chỉ carbon được chính phủ xác thực thông qua việc sử dụng năng lượng tái tạo và quản lý rừng. Mỹ có sàn giao dịch California Cap-and-Trade Program; Trung Quốc có sàn China National Emissions Trading Scheme… Một loạt nước châu Á khai trương sàn giao dịch tín chỉ carbon như: Singapore (tháng 5/2021), Malaysia (9/2022), Indonesia (9/2022)…
Công ty tài chính năng lượng mới Bloomberg dự báo quy mô của thị trường bù đắp carbon toàn cầu có thể tăng vọt lên 1.000 tỷ USD vào năm 2050, từ mức khoảng 2tỷ USD hiện tại, nếu các quốc gia mở rộng việc sử dụng tín chỉ carbon.
Thực tế đã, đang và sẽ cho thấy, phát triển thị trường carbon mang lại nhiều lợi ích vĩ mô và vi mô, trước mắt và lâu dài mang tầm quốc gia và quốc tế. Việc này giúp tạo ra nguồn thu nhập mới cho các dự án và hoạt động giảm phát thải, chẳng hạn như: trồng rừng, bảo vệ rừng và phát triển năng lượng tái tạo, góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu - một trong những thách thức lớn nhất của toàn cầu. Thị trường carbon tạo ra động lực kinh tế và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các công nghệ sạch và hiệu quả hơn, chuyển sang các nguồn năng lượng tái tạo và các phương thức sản xuất ít phát thải hơn.
Nói cách khác, thị trường carbon là cơ chế tạo nguồn lực để thúc đẩy giảm phát thải khí nhà kính và chuyển đổi sang nền kinh tế trung hòa carbon. Tất nhiên, thị trường tín chỉ carbon chỉ có hiệu quả, lợi ích thực sự nếu được áp dụng đồng bộ, rộng khắp và công bằng trên quy mô toàn cầu.
Thị trường tín chỉ carbon: Vì cuộc sống xanh hơn |
Bước tiến mạnh mẽ của Việt Nam
Việt Nam luôn coi biến đổi khí hậu là thách thức lớn nhất và cần tiếp cận toàn cầu, đồng thời, luôn nhất quán và nỗ lực triển khai các cam kết về cắt giảm phát thải khí nhà kính, coi đây là trách nhiệm và cũng là cơ hội để Việt Nam chuyển sang mô hình phát triển phù hợp trong tương lai.
Thực thi Thỏa thuận Paris, Việt Nam thực hiện nghĩa vụ bắt buộc giảm phát thải khí nhà kính kể từ năm 2021 theo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC). Đặc biệt, phải thực hiện các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, giảm phát thải khí methane 30% vào năm 2030, giảm dần và loại bỏ điện than trong giai đoạn 2030-2040, bảo vệ rừng theo cam kết tại Hội nghị COP26.
Thị trường tín chỉ carbon hiện nay mà Việt Nam muốn xây dựng mang yếu tố bắt buộc. Theo đó, các doanh nghiệp bị kiểm soát việc phát thải khí nhà kính, nếu xả thải nhiều hơn hạn ngạch đặt ra, có thể mua thêm tín chỉ carbon trên thị trường bắt buộc, hoặc một phần nhỏ từ thị trường tự nguyện để bù trừ.
Ngược lại, thị trường tín chỉ carbon tự nguyện hoạt động được một khoảng thời gian, nhưng hiện chủ yếu đến từ lâm nghiệp (rừng), do yếu tố lịch sử trong nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính chung của toàn cầu. Hơn nữa, với sự bùng nổ về nhu cầu tín chỉ carbon sau COP26, Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển thị trường carbon. Việt Nam có thể tạo ra các khoản tín dụng carbon chất lượng cao và bán chúng trong khu vực và toàn cầu.
Về cơ bản, các nhà khoa học có chung nhận định, Việt Nam là nước có tiềm năng lớn về nguồn cung ứng tín chỉ carbon. Năm 2023, trong lĩnh vực lâm nghiệp, Việt Nam trở thành quốc gia đầu tiên ở khu vực bán thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng (10,3 triệu tấn CO2) thông qua Ngân hàng thế giới (WB) với đơn giá 5 USD/tấn, thu về 51,5 triệu USD (khoảng 1.200 tỷ đồng).
Tới đây, Việt Nam tiếp tục chuyển nhượng cho tổ chức LEAF/Emergent 5,15 triệu tín chỉ carbon rừng (tương ứng 5,15 triệu tấn CO₂) tại 11 tỉnh vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên trong giai đoạn 2022-2026, với giá tối thiểu 10 USD/tấn. Đây là những tín hiệu tích cực trong việc thương mại hoá tín chỉ carbon của Việt Nam.
Hiện, Việt Nam đang xây dựng dự thảo đề án “Phát triển thị trường carbon tại Việt Nam” trên cơ sở Nghị định số 06/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon. Từ năm 2028, Việt Nam vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức với các hoạt động kết nối, trao đổi trong nước với thị trường khu vực và thế giới.
Trao đổi với Báo Thế giới và Việt Nam, TS. Samuel Buertey, Quyền Phó chủ nhiệm bộ môn Kế toán và Luật, Khoa Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam nhận định, để hoàn thành các mục tiêu đề án đề ra, nhất là việc vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức vào năm 2028, thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam cần được xây dựng phù hợp với điều kiện thực tiễn và định hướng phát triển của quốc gia, cam kết giảm nhẹ phát thải khí nhà kính với quốc tế và xu hướng phát triển thị trường tín chỉ carbon toàn cầu.
Thị trường tín chỉ carbon cần tận dụng tối đa nguồn lực của các thành phần kinh tế trong nước trong việc tham gia hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; hài hòa lợi ích của các chủ thể trên thị trường tín chỉ carbon, tăng sức cạnh tranh của quốc gia theo hướng phát triển kinh tế phát thải ít carbon và tăng trưởng xanh gắn liền với phát triển bền vững.
Với các doanh nghiệp, việc nắm bắt thông tin và chuẩn bị kỹ để tham gia thị trường thông qua việc nâng cao năng lực kiểm kê khí nhà kính, đo đạc, báo cáo và thẩm định các hoạt động phát thải khí nhà kính cấp ngành, cấp cơ sở; tính toán các kịch bản giảm phát thải là việc làm cấp thiết và cần có lộ trình phù hợp đơn vị mình.
Đặc biệt, theo Tiến sĩ Samuel Buertey, về trung và dài hạn, Việt Nam nên cân nhắc liên kết với các thị trường carbon khác trong khu vực và trên toàn cầu, nhằm minh bạch hóa thị trường, tiệm cận và đáp ứng các yêu cầu quốc tế.
Tóm lại, với các biện pháp cẩn trọng và vững chãi, thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam cần được xây dựng phù hợp với điều kiện thực tiễn và định hướng phát triển của quốc gia, cam kết giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và xu hướng phát triển