Back to E-magazine
e magazine
18:32 | 12/05/2022
Thủ tướng Phạm Minh Chính tới Hoa Kỳ: Trông đợi những kết quả chiến lược song phương và đa phương

18:32 | 12/05/2022

Nhân dịp Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Minh Chính dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị cấp cao đặc biệt ASEAN-Hoa Kỳ, thăm và làm việc tại Hoa Kỳ và Liên hợp quốc, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, Đại sứ Phạm Quang Vinh, Chủ tịch Hội Việt Nam-Hoa Kỳ chia sẻ những trông đợi về sự kiện quan trọng này.
Trông đợi những kết quả chiến lược song phương và đa phương

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị Cấp cao đặc biệt ASEAN-Hoa Kỳ, thăm, làm việc tại Hoa Kỳ và Liên hợp quốc từ ngày 11-17/5, Đại sứ kỳ vọng như thế nào về chuyến thăm kéo dài 1 tuần lễ này?

Trông đợi những kết quả chiến lược song phương và đa phương

Đây là chuyến đi quan trọng, mang cả ý nghĩa đa phương và song phương, tức là quan hệ ASEAN-Hoa Kỳ và cả quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ, rồi về hoà bình, hợp tác, phát triển và trật tự dựa trên luật pháp quốc tế ở khu vực. Tôi rất trông đợi vào thành công và các kết quả mang ý nghĩa vừa thiết thực vừa chiến lược của chuyến thăm, trên cả hai góc độ này.

Về quan hệ ASEAN-Hoa Kỳ, chắc chắn có mấy việc quan trọng mà hai bên cần và sẽ tập trung như tăng cường hơn nữa quan hệ; hợp tác các mặt, trong đó có xây dựng cộng đồng ASEAN; hợp tác Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và vai trò trung tâm của ASEAN; ứng phó với các thách thức, trong đó có cả về dịch bệnh, phục hồi, biến đổi khí hậu, hay về vấn đề Biển Đông, Myanmar.

Năm 2022 cũng là dịp kỷ niệm 45 năm đối tác ASEAN-Hoa Kỳ, do vậy, cũng trông đợi hai bên sẽ bàn và nâng cao hơn nữa quan hệ Đối tác chiến lược, như thành Đối tác chiến lược toàn diện.

Về song phương, quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ đã và đang có đà phát triển mạnh mẽ. Dịp chuyến thăm, chắc chắn quan hệ này sẽ càng được tăng cường hơn nữa. Lãnh đạo hai bên đều coi trọng và khẳng định mong muốn làm cho quan hệ sâu sắc, hiệu quả thực chất và nâng lên tầm mới.

Phía Hoa Kỳ coi trọng quan hệ với Việt Nam, ủng hộ một Việt Nam độc lập, vững mạnh và thịnh vượng. Dự kiến, nhân dịp này, hai bên sẽ đẩy mạnh hơn nữa quan hệ, cả về song phương và về các vấn đề khu vực, quốc tế. Theo đó, trông đợi sẽ có các sáng kiến, kế hoạch hợp tác được đề ra, như về tiếp tục hỗ trợ vaccine, mở cửa, phục hồi kinh tế, bảo đảm các chuỗi cung ứng bền vững, cũng như về thương mại, công nghệ, kinh tế xanh. Việt Nam và ASEAN cũng sẽ trông đợi những dự án hợp tác thiết thực từ phía Mỹ với khu vực, trong đó có sáng kiến Khung kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

LTS: Gắn bó với quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ một phần không nhỏ trong sự nghiệp ngoại giao của mình, giờ đây vẫn tiếp tục không ngừng nghỉ thúc đẩy mối quan hệ đặc biệt này, Đại sứ Phạm Quang Vinh có những nhìn nhận, trăn trở và hy vọng về tương lai quan hệ song phương vốn đã ở tầm chiến lược.
Trông đợi những kết quả chiến lược song phương và đa phương

Nhìn lại, Đại sứ có thể chia sẻ những suy nghĩ về hành trình hòa giải hơn 25 năm của mối quan hệ đặc biệt từ cựu thù trở thành bè bạn, đối tác của quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ?

Nếu nhìn lại hơn 25 năm qua của quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ, rõ ràng ai cũng thấy được câu chuyện từ một cựu thù trở thành đối tác toàn diện, hợp tác với nhau trên tất cả các mặt là một hành trình kỳ diệu. Tuy nhiên đằng sau đó là những nỗ lực không mỏi mệt của các bên. Về điều này, tôi muốn nhấn mạnh một vài điểm.

Thứ nhất, đó là vượt qua nỗi đau từ cuộc chiến. Chiến tranh đã gây ra rất nhiều đau thương cho Việt Nam. Ngay trong lòng Hoa Kỳ cũng có những nỗi đau riêng. Đó là điều không dễ khỏa lấp, hàn gắn trong một sớm một chiều. Việt Nam đã đưa ra định hướng “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”.

Quá trình này, cũng không hề dễ dàng thực hiện trong những ngày đầu, đã giúp hai nước từng bước và ngày càng hợp tác trong khắc phục các hậu quả chiến tranh, từ việc tìm kiếm quân nhân Hoa Kỳ bị mất tích, tới hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh như bom mìn, chất độc màu da cam, tẩy độc môi trường, giúp đỡ người dân bị ảnh hưởng ở Việt Nam,… Theo đó, hai nước đã dám vượt qua quá khứ để hướng tới tương lai, trong khi vẫn nhìn nhận trách nhiệm hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh ở Việt Nam.

Thứ hai, là về các nỗ lực rất đáng ghi nhận để thúc đẩy hiểu biết và xây dựng lòng tin. Vốn là cựu thủ từ hai phía của một cuộc chiến tranh khốc liệt và đầy mất mát, rồi lại có các chế độ chính trị-xã hội khác nhau, thì hiểu biết và xây dựng lòng tin đã phải trải qua cả một quá trình.

Đây cũng chính là cơ sở để từ đó hai bên hợp tác, thu hẹp khác biệt và ngày càng nhân lên nhiều hơn các lợi ích song trùng; làm sâu sắc thêm các nguyên tắc chỉ đạo quan hệ, trong đó có việc tôn trọng thể chế chính trị của nhau.

Thứ ba, là việc từng bước hình thành khuôn khổ hợp tác ổn định, lâu dài. Đó là quá trình hai bên từng bước tăng cường hợp tác, từ kinh tế, chính trị, ngoại giao, đến khoa học-công nghệ, quốc phòng, khu vực và quốc tế… mỗi bước đi đều để lại những dấu ấn đậm nét trong quan hệ.

Đơn cử, như việc đạt hiệp định thương mại song phương (BTA), hay thỏa thuận về việc Việt Nam tham gia Tổ chức thương mại thế giới (WTO), vừa gắn với quan hệ hai nước, cũng vừa gắn với phát triển, hội nhập của Việt Nam.

Năm 2013, hai nước thiết lập Đối tác toàn diện, với 9 trụ cột, lĩnh vực ưu tiên. Đây là lần đầu tiên hai nước xác lập một khuôn khổ quan hệ hợp tác ổn định lâu dài. Tháng 7/2015, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng, lần đầu tiên thăm Hoa Kỳ và hai nước đã ra Tuyên bố tầm nhìn chung về quan hệ, vừa làm sâu đậm thêm khuôn khổ Đối tác toàn diện vừa đề ra những định hướng lớn cho tương lai, trong đó nhấn mạnh các nguyên tắc chỉ đạo quan hệ hai nước, mà một trong những nguyên tắc quan trọng là tôn trọng thể chế chính trị của nhau.

Thứ tư, là sự phát triển vượt bậc trong hợp tác hai nước trên tất cả các lĩnh vực trong hơn 25 năm qua, phù hợp với lợi ích của mỗi nước cũng như của cả 2 bên; phù hợp với hòa bình, ổn định và phát triển ở cả khu vực Đông Nam Á và châu Á-Thái Bình Dương. Có thể kể đến việc hợp tác giữa hai nước trong phòng chống dịch Covid-19, vaccine, trong ASEAN hay Liên hợp quốc, Hội đồng Bảo an,…

Trông đợi những kết quả chiến lược song phương và đa phương

Là một trong những nhà ngoại giao kỳ cựu, gắn bó mật thiết với quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ, trăn trở và hy vọng của Đại sứ về mối quan hệ này là gì?

Việt Nam giờ đây đã rất khác, một Việt Nam mới rất khác! Một Việt Nam phát triển, hội nhập và vị thế. Từ Đại hội Đảng lần thứ XIII, cũng như Hội nghị Ngoại giao gần đây, có thể thấy rất rõ một Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ để thực hiện khát vọng đất nước 2030-2045, đưa đất nước phát triển vững mạnh, thịnh vượng, có vị thế trên trường quốc tế và khu vực. Đây chính là kim chỉ nam của Việt Nam trên tất cả các mặt. Vì vậy, đối ngoại chung và quan hệ của Việt Nam với các nước cũng phải đặt ở tầm mới đó và nhân lên.

Việt Nam đổi mới, phát triển và hội nhập qua một chặng đường dài với nhiều thành tựu rất có ý nghĩa, một Việt Nam có vị thế khu vực và quốc tế, được bạn bè tin cậy, đánh giá cao. Nay ta đã có quan hệ với 190 quốc gia và vùng lãnh thổ, có 30 đối tác chiến lược và toàn diện; tham gia hội nhập sâu rộng về các mặt, trong đó có các chuỗi cung ứng, các hiệp định thương mại tự do (FTA),…

Thời gian tới, đối ngoại của Việt Nam càng hướng vào đẩy mạnh hơn tính chủ động, tiên phong, hội nhập toàn diện và sâu rộng. Đó là vì môi trường phát triển và an ninh của chính chúng ta, là gia tăng đan xen lợi ích với thế giới, với các nước và khu vực.

Vậy thì, quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ sẽ vừa cần dựa trên đà phát triển song phương đã có, vừa càng cần phải đặt trong tầm nhìn mới và lợi ích của Việt Nam. Việt Nam độc lập tự chủ, ưu tiên đa dạng hoá, tăng cường quan hệ với láng giềng khu vực và các nước lớn, các đối tác chủ chốt.

Tính về lâu dài và cái gốc, quan hệ của Việt Nam nói chung với các nước, chứ không chỉ với Hoa Kỳ, đều dựa trên song trùng lợi ích, đan xen lợi ích với nhau. Càng đan xen lợi ích với nhau thì càng cần nhau, càng dễ xử lý các khác biệt và làm cho quan hệ tốt đẹp hơn lên.

Nhìn vào quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ, không chỉ nhấn các lĩnh vực hợp tác cụ thể, mà còn phải thấy các giá trị chiến lược của quan hệ, nâng vị thế trong hội nhập và hợp tác với khu vực và thế giới. Rõ ràng, còn nhiều không gian cho hợp tác nhiều hơn nữa, cả về chính trị-ngoại giao, kinh tế, khoa học công nghệ, giáo dục, an ninh quốc phòng, khắc phục hậu quả chiến tranh…

Thêm vào đó là hợp tác khu vực và quốc tế. Làm sao phát huy được vai trò của Việt Nam, của ASEAN và khu vực, thúc đẩy các quan hệ dựa trên hợp tác, xây dựng lòng tin và luật pháp quốc tế? Điều này càng cần thiết khi thế giới và khu vực đã và đang có những chuyển động rất nhanh chóng, sâu sắc, nhiều chiều và phức tạp.

Trông đợi những kết quả chiến lược song phương và đa phương

Cũng có cả những điều cấp thiết cần làm, bao gồm cả trong quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ, như hợp tác để kiểm soát dịch, phục hồi và đảm bảo tính bền vững chuỗi cung ứng, ủng hộ cấu trúc khu vực dựa trên luật pháp quốc tế, thúc đẩy vai trò trung tâm của ASEAN.

Như vậy, trước một Việt Nam mới, đang bước vào một giai đoạn phát triển mới, thế và lực của Việt Nam đã khác, đối ngoại của Việt Nam nói chung và trong quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ nói riêng cũng cần được nhân lên, khai thác tiềm năng, không gian hợp tác, vì chính lợi ích của Việt Nam, trên cơ sở cùng có lợi và dựa trên sự song trùng, đan xen lợi ích.

Trông đợi những kết quả chiến lược song phương và đa phương

Câu chuyện về hòa giải, xây dựng lòng tin giữa hai nước đã được đề cập rất nhiều, giới hạn và rào cản lớn nhất có lẽ không còn tồn tại, theo Đại sứ, để hai nước đạt được những cột mốc cao hơn nữa trong quan hệ song phương, đâu là yếu tố quan trọng nhất vào thời điểm hiện tại?

Như trao đổi ở trên, quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ đã phát triển trên tất cả các lĩnh vực, dựa trên những nguyên tắc chỉ đạo quan hệ như độc lập chủ quyền, tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng thể chế chính trị của nhau, cùng có lợi,… Đó chính là nền tảng tạo đà để quan hệ hai nước tiếp tục phát triển hơn nữa. Cũng xin nêu lại, rõ ràng, chúng ta có cơ sở và cơ hội để nâng quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ lên tầm cao hơn nữa.

Nếu nhìn từ chủ trương, tương quan chung quan hệ với các nước và lợi ích của Việt Nam, thì rõ ràng quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ cần phải được nâng lên tầm mới, và mối quan hệ này còn nhiều không gian để phát triển hơn nữa, vì lợi ích của mỗi nước, cũng như với chung khu vực, thế giới. Nói ngắn gọn, và cũng là điều trăn trở từ lâu, đó là cần sớm định danh đối tác chiến lược cho mối quan hệ này.

Có lẽ, với quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ, sắp tới cần mấy việc. Một là, hai bên cần đặt ra một lộ trình để bàn bạc và sớm định danh tương xứng với tầm quan hệ đã ở mức chiến lược và ngày càng phát triển. Hai là, việc làm sâu sắc hơn quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ phù hợp với lợi ích và chủ trương của Việt Nam, xuất phát từ lợi ích của Việt Nam. Ba là, trên thực tế, quan hệ hai bên, trong hơn 25 năm qua, đã và đang tiếp tục đà phát triển, trên cơ sở cùng có lợi và hai bên cùng mong muốn nâng quan hệ lên tầm mới.

Sắp tới sẽ có một loạt các dịp kỷ niệm, trong ba năm liên tiếp, cũng là những dấu mốc quan trọng của quan hệ. Đó là các kỷ niệm: 10 năm Đối tác toàn diện vào năm 2023, 30 năm bình thường hóa quan hệ về kinh tế vào năm 2024, 30 năm quan hệ ngoại giao vào năm 2025. Đó vừa là những dấu mốc biểu trưng vừa là dịp để hai nước nhìn lại và định hướng quan hệ hai nước trong thời gian tới, ở một tầm cao hơn.

Thủ tướng Phạm Minh Chính tới Hoa Kỳ: Trông đợi những kết quả chiến lược song phương và đa phương

Đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên tại Việt Nam Pete Peterson, Thượng nghị sĩ John McCain, Thượng nghị sĩ John Kerry hay cựu Đại sứ Ted Osius… Về phía Việt Nam có nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại Mỹ Lê Văn Bàng, các đại sứ về sau trong đó có bản thân Đại sứ… Đây là thế hệ ngoại giao kỳ cựu của hai phía luôn mang trong mình khát khao cháy bỏng làm nên những điều kỳ diệu trong quan hệ hai nước. Theo Đại sứ, thế hệ ngoại giao hiện tại cần “tiếp lửa” khao khát ấy như thế nào?

Cái đáng chú ý nhất, đó là, trong mối quan hệ đặc thù này, từ cựu thù đến thành đối tác, thì đã có những nhân vật điển hình như vậy, góp phần vào vào hoà giải, hàn gắn và thúc đẩy quan hệ. Cũng cần nói thêm về rất nhiều những người đã hoặc chưa được điểm tên trong các nỗ lực này, như các cựu binh, các gia đình, người dân, cả từ hai phía. Rất nhiều người, nhiều hoạt động đã trở thành biểu tượng của quan hệ.

Vậy, điều cần thấy ở đây, là ai làm ngoại giao, thì đương nhiên cũng đứng từ góc độ lợi ích, lập trường của quốc gia. Nhưng, ở đây cũng còn là tầm nhìn và khả năng tư vấn, thuyết phục cả bên trong và bên ngoài, tư vấn chính sách với trong nước, rồi bàn FTA bên ngoài, thu hẹp khác biệt, làm cầu nối xây dựng hiểu biết và lòng tin, thúc đẩy quan hệ ra sao, giữa hai bên.

Còn sắp tới, đối ngoại có nhiều cái mới, như đã nêu ở trên. Là nhà ngoại giao, vào lúc này, càng cần phải soi vào lợi ích quốc gia dân tộc, đặt trong bối cảnh mới, vị thế, khát vọng mới. Phải rất sâu sắc, phải thấm, về tình yêu đất nước, về vị thế và khát vọng dân tộc! Điều này sẽ soi rọi vào mỗi người, trong cả tư duy và hành động, trước đây cũng như sắp tới, với các thế hệ các nhà ngoại giao. Lớp trẻ sắp tới càng cần tiếp nối, phát huy hơn nữa.

Cũng đã có nhiều bài học ngoại giao, của dân tộc, của các thế hệ đi trước, đã đúc rút nên, vẫn giữ nguyên giá trị, như về độc lập, tự chủ, hoà hiếu, dĩ bất biến ứng vạn biến. Rồi các chủ trương mới, như về đa dạng hóa, đa phương hóa, đối tác tin cậy, hội nhập toàn diện và sâu rộng, ngoại giao tiên phong, bảo vệ tổ quốc từ sớm từ xa, tạo môi trường tốt nhất cho đất nước, cả về an ninh, phát triển và nâng cao vị thế. Mỗi người làm đối ngoại, dù việc lớn hay nhỏ, đều phải luôn nhận thức rằng mình đại diện cho đất nước, quốc gia, dân tộc. Mỗi người đều phải rèn cả tâm và trí!

Trân trọng cảm ơn Đại sứ!

Thực hiện: Hà Phương

Thiết kế: Hồng Nga

Nguồn ảnh: Nguyễn Hồng, TTXVN, Reuters…

Đọc thêm

'Việt Nam thực chất đã vận hành như một nền kinh tế thị trường'

'Việt Nam thực chất đã vận hành như một nền kinh tế thị trường'

Việc Mỹ sớm công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường sẽ nhất quán, phù hợp với việc tăng cường quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, cụ thể hóa các cam kết để mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp và người tiêu dùng của cả hai nước. Chính việc công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường sẽ giúp đẩy nhanh việc chuyển dịch chuỗi cung ứng, phù hợp với chiến lược friend-shoring của Mỹ để sắp xếp lại chuỗi cung ứng đến các quốc gia an toàn và đáng tin cậy.
Nước Nga - Những ký ức không xa và 'bản tình ca' theo năm tháng

Nước Nga - Những ký ức không xa và 'bản tình ca' theo năm tháng

Với Đại sứ Việt Nam tại Nga Ngô Đức Mạnh (nhiệm kỳ 2018-2021), bạn bè ông hay nhiều thế hệ người Việt từng đi qua những tháng năm chiến tranh rồi bỡ ngỡ bước chân vào hòa bình, Liên Xô, nước Nga, lý tưởng của người Nga đẹp đẽ vô cùng… “Tình yêu” ấy đến nay vẫn bỏng cháy và thiêng liêng.
OECD 2024: Nơi kết nối và giao lưu - Mở cơ hội phát triển

OECD 2024: Nơi kết nối và giao lưu - Mở cơ hội phát triển

Nhận lời mời của Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio và Tổng thư ký Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) Mathias Cormann, từ ngày 2-3/5, tại thủ đô Paris, Pháp, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã tham dự Hội nghị Hội đồng Bộ trưởng OECD năm 2024 (MCM 2024).
Một ngày hoạt động đầy năng lượng của Chủ tịch Đại hội đồng UNESCO tại Ninh Bình

Một ngày hoạt động đầy năng lượng của Chủ tịch Đại hội đồng UNESCO tại Ninh Bình

Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam từ ngày 24-27/4, Chủ tịch Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) Simona-Mirela Miculescu dành trọn một ngày tham gia nhiều hoạt động ở Ninh Bình.
Diễn đàn Tương lai ASEAN: Mở đầu cho những kế hoạch mới

Diễn đàn Tương lai ASEAN: Mở đầu cho những kế hoạch mới

ASEAN không phải dấu cộng của các cuộc họp, ASEAN là một hành trình. Diễn đàn Tương lai ASEAN (AFF) cũng không phải là tổng các phiên thảo luận, tiếp xúc mà là những ý tưởng vô tận với ý nghĩa đặc biệt “dành riêng cho ASEAN, của ASEAN, vì ASEAN và vì người dân ASEAN”.
Câu chuyện của người xây dựng AWEN - 'Ngôi nhà chung' cho nữ doanh nhân ASEAN

Câu chuyện của người xây dựng AWEN - 'Ngôi nhà chung' cho nữ doanh nhân ASEAN

AWEN - “ngôi nhà chung” cho doanh nhân nữ ASEAN, là dấu ấn đẹp của Việt Nam trong việc tạo dựng một mạng lưới hỗ trợ các doanh nhân nữ trong khu vực, đồng thời khơi dậy tiềm năng của họ cho sự tiến bộ và phát triển toàn diện trong ASEAN.