📞

Thụy Điển chia sẻ kinh nghiệm cải thiện quan hệ lao động

22:33 | 12/04/2016
Không thể đánh đổi gia tăng thương mại bằng những hậu quả về tác động môi trường hoặc vi phạm quyền của người lao động.
Toàn cảnh Hội thảo. (Ảnh: ĐSQ Thụy Điển)

Là khẳng định của Đại sứ Thụy Điển tại Việt Nam Camilla Mellander tại Hội thảo “Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA): Nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua việc cải thiện quan hệ lao động” diễn ra ngày 12/4 tại TP.HCM.

Sự kiện do Đại sứ quán Thụy Điển và Chi nhánh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tại Tp.Hồ Chí Minh đồng tổ chức, thu hút hơn 100 đại biểu tham dự.

Năm 2015 là một năm quan trọng đối với Việt Nam khi chúng ta đã hội nhập sâu hơn thông qua việc hoàn tất đàm phán và ký kết Hiệp định EVFTA và Hiệp định Đối tác xuyênThái Bình Dương (TPP). Khi EVFTA dự kiến có hiệu lực năm 2018, GDP của Việt Nam ước tính có thể tăng thêm 15% và giá trị xuất khẩu sang EU có thể tăng gần 35%.

EVFTA cũng là hiệp định mà lần đầu tiên EU ký kết với một nước đang phát triển. Hiệp định không chỉ tạo giúp gia tăng thương mại, thúc đẩy cho hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam thâm nhập thị trường EU, mà còn cung cấp cho Việt Nam những cơ hội mới để cải thiện tính bền vững và năng lực lao động.

Phát biểu khai mạc Hội thảo, Đại sứ Camilla Mellander khẳng định, không thể đánh đổi gia tăng thương mại bằng những hậu quả về tác động môi trường hoặc vi phạm quyền của người lao động. Các doanh nghiệp Việt Nam nên chú trọng và hiểu rõ tầm quan trọng của việc tuân thủ hoạt động trách nhiệm xã hội (CSR) theo những cam kết của Chính phủ trong EVFTA.  

“Người tiêu dùng ngày càng có ý thức  rõ hơn về việc cách các sản phẩm họ mua đã được sản xuất trong điều kiện môi trường và lao động như thế nào. Nhận thức cao của người tiêu dùng sẽ tạo ra áp lực đối các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp và Việt Nam nói riêng trong việc tăng cường những nỗ lực để triển khai hoạt động theo đúng tiêu chuẩn CSR quốc tế nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường”, bà Camilla Mellander nói.

Đại sứ Mellander cũng nhấn mạnh, Thụy Điển sẵn sàng hợp tác cùng với Việt Nam để chia sẻ những kinh nghiệm sáng tạo và thực hành tốt nhất trong lĩnh vực cải thiện quan hệ lao động trong bối cảnh của Hiệp định EVFTA. Trong năm 2013, Thụy Điển đã đứng đầu chỉ số RobecoSAM  về bền vững. Đây là chỉ số toàn diện và hệ thống nhằm đánh giá và xếp hạng 59 quốc gia dựa trên 17 chỉ số về môi trường, xã hội và quản trị.

Theo bà Mellander, các công ty Thụy Điển có quá trình lịch sử lâu dài trong việc triển khai các hoạt động CSR và Thụy Điển được xem như là một quốc gia tiên phong trong lĩnh vực này. Thụy Điển đã có những bước đi quan trọng như yêu cầu các doanh nghiệp Nhà nước thiết lập các mục tiêu phát triển bền vững. Các mục tiêu này phải được Hội đồng quản trị công ty thông qua, tập trung vào các chủ đề như tôn trọng sự đa dạng, các vấn đề môi trường, quyền con người, điều kiện làm việc, các biện pháp phòng chống tham nhũng, đạo đức kinh doanh và bình đẳng giới. Các mục tiêu này cũng cần phải đo lường được, cụ thể hóa và có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp.

Tại Việt Nam, Bộ Luật Lao động sửa đổi năm 2012 đã quy định quy trình giải quyết tranh chấp trong quan hệ lao động. Tuy nhiên, rất nhiều vấn đề còn tồn tại như năng lực của công đoàn và sự thực thi Bộ Luật này trong cuộc sống. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở đâu đó vẫn còn là khái niệm mới mẻ và các doanh nghiệp Việt vẫn đang gặp thách thức để triển khai chương trình trách nhiệm xã hội của mình.

Ông Võ Tân Thành, Phó Chủ tịch VCCI cho biết, các Hiệp định thương mại thế hệ mới như EVFTA hay TPP sẽ tạo điều kiện rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, mở rộng thị trường và tìm kiếm bạn hàng. Tuy nhiên các điều khoản phi thương mại như các các điều khoản về lao động, môi trường… cũng đặt ra nhiều thách thức, yêu cầu các doanh nghiệp Việt Nam cần nỗ lực chú trọng nhiều hơn trong việc thực thi việc tuân thủ, cũng như trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nhằm thỏa mãn yêu cầu quy định trong nội dung Hiệp định và xa hơn nữa là đảm bảo cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. 

Trong năm 2014, thương mại hai chiều giữa EU và Việt Nam đã tăng 8,8%, đưa EU trở thành một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, trong đó Việt Nam đạt thặng dư xuất khẩu 2 tỷ USD. Kể từ năm 2013, Việt Nam cũng trở thành đối tác thương mại quan trọng thứ 4 đối với EU trong 10 nước thành viên ASEAN.

Hiện nay, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang EU các mặt hàng như điện thoại, thiết bị điện tử, da giày, dệt may, cà phê, gạo, hải sản và đồ nội thất. Ở chiều ngược lại, Việt Nam nhập khẩu từ EU các sản phẩm công nghệ cao bao gồm máy móc thiết bị điện tử, máy bay, phương tiện vận tải, và dược phẩm.