Khi dịch Covid-19 hoành hành trên khắp thế giới, một số quốc gia ở châu Á đã chứng tỏ khả năng đáng chú ý để ngăn chặn những hậu quả tồi tệ nhất, trong đó có Việt Nam và Campuchia. Thành công này nổi bật vì các quốc gia đó đều có ít nguồn lực hơn để đối phó với Covid-19 so với các quốc gia giàu có, nơi dịch bệnh đã gây ra những hậu quả khủng khiếp.
Ảnh chụp màn hình bài báo trên trang brinknews.com ngày 7/10. |
Không phải tất cả các nước Đông Nam Á đều thành công trong việc ngăn chặn sự lây lan của Covid-19. Vậy tại sao Việt Nam và Campuchia có kết quả đáng ngưỡng mộ như vậy?
Dân số trẻ
Các chuyên gia đã chỉ ra rằng, cơ cấu dân số trẻ ở các quốc gia này có thể là một yếu tố miễn dịch, tuy nhiên, dịch Covid-19 đã không bỏ qua dân số trẻ ở Indonesia và Philippines.
Ý kiến khác cho rằng, tỷ lệ xét nghiệm thấp khiến có thể có báo cáo thấp về các trường hợp đang che giấu mức độ nghiêm trọng thực sự của Covid-19 ở các quốc gia này. Tuy nhiên, cho đến nay, không có nguy cơ hệ thống y tế ở Việt Nam hoặc Campuchia trở nên quá tải vì mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh, như chúng ta đã thấy ở các nước khác.
Thành công ban đầu của các quốc gia này trong việc ứng phó với Covid-19 cho thấy rằng, một phản ứng hiệu quả không phụ thuộc vào nguồn lực sẵn có. Tầm quan trọng của việc xét nghiệm để ngăn chặn sự lây lan của virus gây bệnh đã được đặt lên hàng đầu, ví dụ như chiến lược “kiểm tra, kiểm tra, kiểm tra” của Hàn Quốc.
Tuy nhiên, do không đủ nguồn lực để huy động một cơ sở hạ tầng xét nghiệm mở rộng, Việt Nam và Campuchia đã dựa vào sự kết hợp của các chiến thuật để “cô lập” virus.
Cô lập SARS-CoV-2
Một chiến thuật đã được thực hiện là xét nghiệm có mục tiêu, trong đó, các cơ quan y tế tập trung vào những cá nhân có nguy cơ cao, các tòa nhà hoặc khu vực lân cận, nơi các trường hợp dương tính đã được ghi nhận. Điều này được kết hợp với việc truy vết tiếp xúc trên diện rộng.
Tại Việt Nam, có hệ thống 3 cấp độ để xác định mức độ tiếp xúc với người nhiễm bệnh và mức độ cần thiết thực hiện xét nghiệm cho các đối tượng có tiếp xúc với những người mắc Covid-19.
Biện pháp này được tăng cường hiệu quả bằng việc ban hành các hướng dẫn quốc gia giúp cho thành viên trong các cộng đồng, như giáo viên, các nhà lãnh đạo tôn giáo, thông tin thường xuyên về diễn biến sức khỏe của cộng đồng mà họ phụ trách. Các nỗ lực truy vết tiếp xúc còn được hỗ trợ bởi một ứng dụng di động cho phép báo cáo tình trạng sức khỏe, các trường hợp nghi nhiễm và một ứng dụng khác thông báo cho người dùng về nguy cơ phơi nhiễm.
Việc giám sát cấp địa phương và sự tham gia của cộng đồng đã giúp xác định sớm các ổ dịch có thể bùng phát ở Việt Nam, cũng như thực hiện cách tiếp cận dựa trên nguy cơ phơi nhiễm với bất kể ai dù có biểu hiện triệu chứng hay không. Điều này là rất quan trọng để kiềm chế sự lây lan của Covid-19 bởi các nhà khoa học đã khẳng định rằng, ngay cả đối với những người không có triệu chứng nhiễm bệnh vẫn có nguy cơ lây nhiễm sang người khác.
Sau khi dịch Covid-19 bùng phát, Việt Nam đã thiết lập cơ sở hạ tầng cho hoạt động cách ly người nhiễm bệnh và khách du lịch quốc tế, giảm thiểu phơi nhiễm trong hộ gia đình. Theo thống kê, từ tháng 1 đến tháng 5, có khoảng 200.000 người đã được cách ly phòng bệnh tại các cơ sở tập trung ở Việt Nam.
Còn tại Campuchia, mạng lưới khoảng 2.900 nhân viên chăm sóc sức khỏe đã được đào tạo trong tháng 1 và tháng 2 để hỗ trợ phát hiện và truy vết tiếp xúc trong cộng đồng.
Kinh nghiệm từng trải qua các đợt dịch lớn
Từng trải qua dịch SARS năm 2003 và các đợt cúm gia cầm từ năm 2004 đến năm 2010, chính quyền Việt Nam và Campuchia đã đề cao mối đe dọa của Covid-19 ngay từ đầu. Y tế được ưu tiên hơn các mối quan tâm kinh tế khi mỗi nước nhanh chóng thực hiện các biện pháp kiểm soát biên giới và thực thi việc đeo khẩu trang, giãn cách xã hội.
Kinh nghiệm trong quá khứ về việc đối phó dịch bệnh có thể giúp công chúng dễ thích nghi với các biện pháp như vậy và hiểu được sự cần thiết của hành động quyết liệt để ngăn chặn đại dịch.
Kết quả một cuộc khảo sát vào tháng 3 cho thấy, hầu hết người Việt Nam (62%) đồng ý rằng, phản ứng của Chính phủ là "phù hợp", cho thấy mức độ ủng hộ cao của công chúng đối với các biện pháp phòng dịch.
Giám sát chặt
Tại Campuchia, tình trạng khẩn cấp được thông qua cho phép giám sát viễn thông không giới hạn, chính phủ có quyền kiểm soát báo chí và truyền thông xã hội, cũng như hạn chế quyền tự do đi lại để hạn chế tối đa sự lây lan của virus gây bệnh.
Tác giả bài báo nhận định, xét nghiệm có mục tiêu và sự tham gia của cộng đồng là rất quan trọng trong việc ứng phó với Covid-19 trong bối cảnh các nguồn lực hạn chế. Mặc dù vẫn có đôi chút lo ngại rằng, sự quan tâm đến quyền riêng tư có thể trở thành vật cản đối với lòng tin của công chúng và sự sẵn sàng tham gia vào nỗ lực đối phó với dịch Covid-19. Nhưng cho đến nay, Việt Nam và Campuchia đã chứng tỏ là những ví dụ tuyệt vời về cách thức mà các quốc gia có nguồn lực hạn chế ngăn chặn thành công làn sóng Covid-19.
| Đến lượt báo Đức ca ngợi Việt Nam là hình mẫu trong cuộc chiến chống Covid-19 TGVN. Báo Toàn cảnh Frankfurt (FAZ) của Đức ngày 6/10 có bài viết đánh giá cao hình mẫu chống dịch viêm đường hô hấp cấp ... |
| Báo Nga nói về bước thử nghiệm chung sống với Covid-19 của Việt Nam khi mở lại đường bay quốc tế TGVN. Việc mở lại các đường bay quốc tế tầm gần là một bước thử nghiệm chung sống với Covid-19 trong trạng thái mới của ... |
| Báo Đức ca ngợi công tác kiểm soát dịch Covid-19 của Việt Nam TGVN. Báo Đức Spiegel vừa có bài viết đánh giá cao công tác phòng chống dịch Covid-19 của Việt Nam, đồng thời tri ân nghĩa cử ... |