UNCLOS 1982 được xem như một bản Hiến pháp của đại dương. (Nguồn: VOV.VN) |
Bản Hiến pháp của đại dương
Lễ ký Công ước tổ chức tại Montego (Jamaca) ngày 10/12/1982 với 107 quốc gia tham gia ký kết, trong đó có Việt Nam. Công ước bắt đầu có hiệu lực từ ngày 16/11/1994 và trở thành một trong những văn kiện quốc tế quan trọng nhất của thế kỷ XX, tiếp sau Hiến chương LHQ, với 168 quốc gia phê chuẩn tính đến thời điểm này.
Công ước Luật Biển 1982 là một văn kiện quốc tế đa phương đồ sộ, thể hiện sự thoả hiệp mang tính toàn cầu, bao quát toàn bộ các vấn đề pháp lý quan trọng nhất liên quan đến biển và đại dương, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, có tính đến lợi ích của tất cả các quốc gia khác nhau (gồm cả những nước có biển và không có biển, các nước phát triển cũng như đang phát triển).
Công ước khẳng định chủ quyền của quốc gia ven biển đối với các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia (bao gồm lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hai, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa), đồng thời xác định rõ quyền và nghĩa vụ của mọi quốc gia về hợp tác, sử dụng và khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên biển, về giao thông liên lạc, nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường, giải quyết hòa bình các tranh chấp về biển, tuân thủ chế độ quản lý khai thác tài nguyên đối với đối với các vùng biển nằm ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia. Công ước không chấp nhận bảo lưu mà đòi hỏi phải tham gia “cả gói” (package deal) theo nguyên tắc “nhất trí” (consensus). Các quốc gia tham gia Công ước phải có trách nhiệm ràng buộc và thực hiện toàn bộ các điều khoản của Công ước.
Công ước còn được coi là một trong những thành tựu có ý nghĩa nhất trong lĩnh vực luật pháp quốc tế của thế kỷ XX, bao gồm 320 điều khoản và 9 Phụ lục, với hơn 1000 quy phạm pháp luật và được mệnh danh là “Bản Hiến pháp của đại dương”.
Một số nội dung quan trọng đã được quy định trongUNCLOS 1982 bao gồm:
1. Quy chế các vùng biển thuộc phạm vi tài phán quốc gia của nước ven biển:
Quốc gia ven biển được quyền thiết lập và thực thi chủ quyền đầy đủ đối với lãnh hải rộng 12 hải lý tính từ “đường cơ sở lãnh hải” (bao gồm cả vùng nước, bầu trời và lòng đất đáy biển). Tuy nhiên, tàu thuyền và máy bay của tất cả các nước đều có quyền "qua lại vô hại" trên vùng nước lãnh hải thuộc quốc gia ven biển. Đối với các khu vực lãnh hải có eo biển được sử dụng cho hàng hải quốc tế, tàu thuyền và máy bay của các nước được được hưởng quyền "quá cảnh" (transit) với quy chế tự do hơn.
Những nước là “Quốc gia quần đảo” được quyền xác định đường cơ sở lãnh hải nối các đảo ngoài cùng thuộc quần đảo; tàu thuyền nước ngoài được phép "qua lại vô hại" trong vùng nước quần đảo hoặc đi theo các tuyến đường hàng hải do quốc gia quần đảo ấn định. Trong “vùng tiếp giáp lãnh hải” rộng tối đa 12 hải lý, quốc gia ven biển được thực thi các quyền về hải quan, tài chính, nhập cư, kiểm dịch y tế, và trừng phạt vi phạm.
Quốc gia ven biển được thiết lập vùng “đặc quyền kinh tế” (ĐQKT) rộng tối đa 200 hải lý tính từ đường cơ sở lãnh hải và thực thi các quyền chủ quyền và tài phán đối với việc thăm dò, khai thác và bảo vệ các nguồn tài nguyên sinh vật trong vùng ĐQKT của mình; đồng thời cho phép các quốc gia không có biển hoặc bất lợi về địa lý được tham gia khai thác một phần dư dôi của các tài nguyên nói trên. Quốc gia ven biển cũng có quyền chủ quyền và tài phán đối với một số hoạt động kinh tế khác, bao gồm cả hoạt động nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường. Các quốc gia khác có quyền tự do hàng hải và hàng không, tự do đặt dây cáp và đường ống dẫn ngầm trong vùng ĐQKT.
Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền về thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên tại vùng thềm lục địa (TLĐ) của mình, với chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở lãnh hải, hoặc có thể mở rộng hơn tại những nơi ranh giới ngoài của thềm lục đia kéo dài quá 200 hải lý, nhưng tối đa không quá 350 hải lý và phải được sự chấp thuận của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa (được thành lập theo Phụ lục II trong Công ước Luật Biển 1982), đồng thời phải chia sẻ với cộng đồng quốc tế 1 phần lợi tức thu được từ việc khai thác tài nguyên ở khu vực TLĐ mở rộng nói trên.
2. Quy chế các vùng biển nằm ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia, bao gồm 2 chế độ pháp lý khác nhau: (a) Vùng “biển quốc tế” (áp dụng đối với cột nước phía trên đáy biển) theo qui chế “tự do biển cả”; (b) Khu vực “đáy đại dương” (gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển) tài nguyên khoáng sản ở đó được coi là tài sản chung của nhân loại.
a) Qui chế vùng “biển quốc tế” (biển cả):
Trên cơ sở nguyên tắc tập quán lâu đời về “quyền tự do biển cả”, Công ước qui định tất cả các quốc gia đều có quyền tự do về hàng hải và hàng không, tự do đặt dây cáp và đường ống dẫn ngầm, tự do nghiên cứu khoa học biển và đánh cá trên các vùng biển quốc tế; đồng thời có nghĩa vụ tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác, đảm bảo an toàn hàng hải, hợp tác chống tội phạm (cướp biển, buôn bán ma túy, chuyên chở chất độc hại).
Các vùng “biển quốc tế” phải được sử dụng vì mục đích hòa bình và không một quốc gia nào có quyền đòi hỏi chủ quyền đối với bất cứ bộ phận nào thuộc vùng biển quốc tế (điều 88 - 89).
Các quốc gia có nghĩa vụ ngăn chặn và kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại gây ra do vi phạm nghĩa vụ quốc tế của mình.
Tất cả mọi quốc gia phải thực hiện các biện pháp bảo vệ nguồn tài nguyên sinh vật biển (không chỉ ở các vùng biển quốc tế mà ngay tại các vùng biển thuộc chủ quyền và tài phán của quốc gia ven biển) và hợp tác cùng nhau hoặc thông qua các tổ chức quốc tế và khu vực nhằm bảo tồn và phát triên nguồn tài nguyến sinh vật biển, bảo vệ đa dạng sinh học, chống khai thác quá mức, và có các biện pháp ngăn cấm công dân của họ vi phạm các qui định về bảo tồn sinh vật biển.
b) Qui chế khu vực “đáy đại dương”:
“Đáy đại dương” và nguồn tài nguyên vô cùng to lớn trên bề mặt và dưới lòng đất đáy đại dương, được coi là tài sản chung của toàn nhân loại. Trên cở sở đó, Công ước 1982 đã thiết lập 1 cơ chế pháp lý mới là “Cơ quan quyền lực đáy đại dương” (Seabed Authority) thay mặt các quốc gia thành viên kiểm soát và quản lý việc thăm dò, khai thác tài nguyên theo chế độ chung.
Thành phần chính của Cơ quan Quyền lực bao gồm “Đại hội đồng” với đại diện tất cả các quốc gia thành viên (giống như Đại hội đồng LHQ) và “Hội đồng” với 36 thành viên (nhiệm kỳ 4 năm) và Ban Thư ký do Tổng Thư ký đứng đầu. Ngoài ra còn có Uỷ ban Tài chính với 15 thành viên do Đại hội đồng bầu. Cơ quan quyền lực còn thành lập 1 pháp nhân gọi là “Xí nghiệp” (Enterprises) đảm nhận các công việc liên quan đến hoạt động khai thác và kinh doanh các sản phẩm khai thác được từ đáy đại dương.
Các qui định về chế độ khai thác tài nguyên trong “Khu vực”, chức năng và cơ chế hoạt động của “Cơ quan quyền lực” (Đại hội đồng, Hội đồng và Ban thư ký), nghĩa vụ và trách nhiệm của các quốc gia và “Xí nghiệp” khi tham gia và tiến hành khai thác… được qui định chi tiết trong Phần XI của Công ước. Thỏa thuận bổ sung năm 1994 giữa 2 nhóm nước phát triển và đang phát triển về thực hiện phần XI của Công ước có thay đổi một số qui định liên quan đến quy chế pháp lý của đáy biển quốc tế, đáp ứng yêu cầu của các nước phát triển, mở đường cho việc họ phê chuẩn Công ước.
3. Qui định về hợp tác và giải quyết hòa bình các tranh chấp biển:
Nguyên tắc nền tảng của Công ước Luật Biển 1982 là các quốc gia thành viên phải hợp tác giải quyết mọi tranh chấp về giải thích và áp dụng các điều khoản của Công ước bằng các biện pháp hòa bình theo đúng Điều 2, Khoản 3 của Hiến chương LHQ, với các thủ tục nêu tại Điều 33, Khoản 1 của Hiến chương.
Cần lưu ý rằng cơ chế giải quyết tranh chấp theo UNCLOS chỉ áp dụng đối với tranh chấp tồn tại giữa các quốc gia về phương diện giải thích và áp dụng Công ước (Điều 279 và 288); các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ lại theo cơ chế khác qui định trong Hiến chương LHQ.
Việc đưa vào Công ước 1982 các điều khoản bắt buộc về giải quyết tranh chấp biển được coi là một bước tiến lớn của Luật quốc tế, cho phép một quốc gia có thể đơn phương đưa tranh chấp ra giải quyết theo thủ tục hòa giải, trọng tài hoặc tòa án (Tòa án Luật Biển).
Thực tế, Công ước đã xây dựng được một cơ chế giải quyết tranh chấp với nhiều tầng nấc, vừa bảo đảm quyền tự do lựa chọn của các bên về biện pháp, cơ quan giải quyết tranh chấp, vừa tạo điều kiện thúc đẩy quá trình giải quyết tranh chấp.
Bên cạnh đó, Công ước cũng đòi hỏi các quốc gia có bờ biển tiếp giáp hoặc đối diện nhau phải tiến hành đàm phán phân định ranh giới lãnh hải, vùng ĐQKT và TLĐ trên cơ sở luật pháp quốc tế và điều 38 của Qui chế Tòa án Công lý Quốc tế nhằm đi đến một giải pháp công bằng. Nếu không đạt được giải pháp trong một thời gian hợp lý, các bên sẽ sử dụng các thủ tục qui định tại phần XV của Công ước; đồng thời có thể cố gắng tìm kiếm giải pháp tạm thời trên tinh thần hiểu biết và hợp tác; nhưng không làm ảnh hưởng tới giải pháp cuối cùng. Như vậy, có thể nói cơ chế giải quyết tranh chấp của Công ước 1982 đã đi tiên phong trong việc quy định quyền đơn phương khởi kiện của các quốc gia thành viên ra một cơ quan tài phán quốc tế.
Công ước cũng yêu cầu các quốc gia nằm trong khu vực biển kín hoặc nửa kín phải hợp tác cùng nhau trong việc quản lý nguồn tài nguyên sinh vật cũng như trong các chính sách và hoạt động về môi trường và nghiên cứu khoa học. Các quốc gia không có biển được quyền tiếp cận với biển và được tự do quá cảnh ra biển thông qua nước ven biển.
UNCLOS 1982 đã trở thành cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc, quan trọng, để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trên biển. (Ảnh: QT) |
Việt Nam tham gia Công ước Luật Biển 1982
Là quốc gia ven biển có đường bờ biển dài trên 3.200 km, với diện tích vùng biển thuộc quyền chủ quyền và tài phán của mình rộng gần gấp 3 lần lãnh thổ đất liền, cùng với khoảng 3.000 hòn đảo ven bờ và 2 quần đảo ngoài khơi là Hoàng Sa và Trường Sa, biển giữ vai trò vô cùng quan trọng về kinh tế cũng như an ninh quốc phòng đối của đất nước.
Ngay sau khi nước Việt Nam thống nhất trở thành thành viên của LHQ, Việt Nam đã tích cực tham gia Hội nghị Luật Biển lần thứ ba của LHQ và là một trong 107 quốc gia tham gia ký Công ước tại Montego Bay ngày 10/12/1982.
Trước đó, ngay từ ngày 12/5/1977, Chính phủ Việt Nam đã ra “Tuyên bố về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam”, tạo cơ sở cho đoàn khẳng định rõ lập trường tại hội nghị và trong đàm phán phân định biển với các nước láng giềng trong giai đoạn sau này.
Ngày 23/6/1994, Việt Nam là quốc gia thứ 63 phê chuẩn Công ước, trước khi Công ước chính thức có hiệu lực vào tháng 12/1994. Nghị quyết phê chuẩn của Quốc hội đã khẳng định, bằng việc phê chuẩn Công ước, Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển.
Quốc hội đã khẳng định chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng ĐQKT, thềm lục địa của Việt Nam, cùng vời hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trên cơ sở các quy định của Công ước và các nguyên tắc của pháp luật quốc tế, yêu cầu các nước khác tôn trọng các quyền nói trên của Việt Nam.
Quốc hội đồng thời cũng tuyên bố lập trường của nhà nước Việt Nam là giải quyết hòa bình các bất đồng liên quan đến Biển Đông trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế. Trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản lâu dài, các bên liên quan cần duy trì hòa bình, ổn định trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật trong nước để cụ thể hóa các quy định của Công ước trong nhiều lĩnh vực như biên giới lãnh thổ, hàng hải, thủy sản, dầu khí, bảo vệ môi trường biển và hải đảo; bao gồm cả việc ban hành “Luật Biển Việt Nam” năm 2012.
UNCLOS 1982 đã trở thành cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc, quan trọng, để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trên biển. Công ước Luật Biển 1982 cũng là công cụ phục vụ cho việc đàm phán phân định vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa Việt Nam với các nước láng giềng (bao gồm Campuchia, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Trung Quốc) và góp phần tạo dựng tạo môi trường ổn định, hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực Biển Đông.
Trong năm 2009, thực hiện nghĩa vụ quy định trong Công ước, Việt Nam đã đệ trình lên “Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của LHQ” ranh giới ngoài mở rộng của thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Bắc Biển Đông; đồng thời, Việt Nam đã cùng Malaysia đệ trình chung lên Ủy ban này ranh giới ngoài của khu vực thềm lục địa mở rộng tại phía Nam Biển Đông, nơi hai nước có thềm lục địa chồng lấn chưa phân định.
Tóm lại, việc ký kết Công ước Luật Biển cách đây 40 năm là một dấu mốc lịch sử trong quá trình phát triển của luật quốc tế, tạo ra khung pháp lý toàn diện giúp duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia trên thế giới cũng như sự phát triển bền vững của đại dương. Tầm quan trọng của Công ước và giá trị phổ quát của việc thực thi Công ước ngày càng được LHQ và các nước đề cao trên nhiều lĩnh vực khác nhau, thực tế đã trở thành cơ sở pháp lý cho mọi hành động cũng như hợp tác ở cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu; do có tầm quan trọng chiến lược, tính thống nhất, toàn vẹn của Công ước.
Là một quốc gia ven biển, một thành viên tích cực và có trách nhiệm, Việt Nam luôn khẳng định Công ước 1982 là một trong những quy định của luật pháp quốc tế đóng vai trò then chốt trong việc quản lý, phát triển kinh tế biển quốc gia; đồng thời, là cơ sở để Việt Nam giải quyết hòa bình các tranh chấp biển với các quốc gia láng giềng, hướng tới việc quản trị Biển Đông hòa bình, bền vững.