Phát biểu tại buổi lễ, TS. Nguyễn Gia Đối - Quyền Viện trưởng Viện Khảo cổ học nhận định, trải qua 50 năm xây dựng và phát triển, cơ cấu tổ chức và nhân sự của Viện có nhiều thay đổi và dần hoàn thiện, đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
Năm 2018, Viện Khảo cổ học tròn 50 tuổi - nửa thế kỷ ghi dấu ấn hoạt động nghiên cứu với những chặng đường phát triển gắn với các giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc.
“50 năm qua, Viện luôn bám sát chức năng và nhiệm vụ được giao, thực hiện một hệ thống các đề tài và nhiệm vụ phong phú, đa dạng trong việc nhiên cứu lịch sử - văn hóa - văn minh Việt Nam”, TS. Nguyễn Gia Đối nhấn mạnh.
Một trong những thành tựu nổi bật của Viện Khảo cổ trong 50 năm qua là triển khai các đề tài nghiên cứu về thời văn minh và nhà nước sớm ở Việt Nam, mở đầu bằng Chương trình Nghiên cứu thời kỳ các vua Hùng dựng nước. Chương trình đã huy động được đông đảo giới nghiên cứu tham gia nhằm chứng minh thời kỳ các vua Hùng dựng nước là có thật, góp phần quyết định đưa thời kỳ này vào chính sử Việt Nam.
Các đại biểu chụp ảnh tại Lễ kỷ niệm. (Ảnh: YN) |
“Các công trình này tiêu biểu cho những đóng góp của ngành khảo cổ học vào công cuộc nghiên cứu lịch sử dân tộc, chứng minh sự tồn tại của các xã hội phân tầng, đạt trình độ văn minh cao với sự phát triển của nông nghiệp trồng lúa, nghề luyện kim đúc đồng, trao đổi sản phẩm… là nền tảng kinh tế xã hội cơ bản của nhà nước sơ khai Văn Lang - Âu Lạc”, ông Nguyễn Gia Đối cho hay.
Ý nghĩa to lớn của các chương trình nghiên cứu này là phục dựng lại diện mạo một giai đoạn lịch sử quan trọng của quá trình hình thành các nền văn minh sớm của quốc gia dân tộc, khơi dậy ý thức, niềm tự hào về giá trị truyền thống, góp phần vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ chủ quyền và xây dựng xã hội XHCN hiện nay.
Trong 50 năm qua, mỗi thời kỳ có mức độ khác nhau, các nhà nghiên cứu của Viện đã bền bỉ vượt mọi khó khăn nguy hiểm, tiến hành khảo sát, khai quật ở khắp các vùng núi cao, vực thẳm, lần lượt xác định các dấu mốc quan trọng trong tiến trình tiến hóa người, môi trường sinh thái và di tồn văn hóa các cộng đồng dân cư thời tiền sử trên đất nước ta.
Đó là những phát hiện về hóa thạch người vượn ở Thẩm Khuyên, Thẩm Hai; những hóa thạch ở người hiện đại. Đó là những phát hiện về di tồn văn hóa của người nguyên thủy với các sưu tập công cụ sơ kỳ Đá cũ ở Núi Đọ (Thanh Hóa) và gần đây là ở An Khê (Gia Lai) có niên đại từ khoảng 80 vạn đến 30 vạn năm. Đó là các kỹ nghệ hậu kỳ Đá cũ như Sơ Vi, Tiền Hòa Bình có niên đại 4-3 vạn năm cách ngày nay...
Những công trình khảo cổ học thời lịch sử cũng đã đóng góp các chứng lý vật chất về sức sống của văn hóa Việt và người Việt trong đêm trường nghìn năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc. Thành tựu quan trọng đó cũng góp phần lý giải thuyết phục cho hiện tượng “phục tập” rực rỡ của văn hóa Đại Việt thế kỷ 10 - 15.
Đặc biệt, Khảo cổ học lịch sử đã có thêm khối tư liệu đồ sộ từ khai quật nghiên cứu khảo cổ (tiêu biểu là Hoàng Thành Thăng Long, Thành Nhà Hồ…) đã minh chứng cho tầm vóc văn hóa/ văn minh/ văn hiến Đại Việt đậm đà bản sắc dân tộc, hội tụ, kết tinh tinh hoa văn hóa phương Đông đương đại.
Ngoài những công trình nghiên cứu về văn hóa Đại Việt, còn có thêm những đóng góp quan trọng nghiên cứu về văn hóa Champa ở Trung Bộ và văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ. Đó là những nghiên cứu về các công trình kiến trúc, các trung tâm chính trị, kinh tế, quân sự hoặc khái quát những vấn đề cơ bản của hai nền văn hóa này. Từ đó, xác định diện mạo văn hóa vật chất, tín ngưỡng/ tôn giáo, nguồn gốc bản địa kết hợp với tiếp xúc ảnh hưởng văn hóa từ Ấn Độ.
Theo TS. Nguyễn Gia Đối, thêm một phần quan trọng khác mà Viện Khảo cổ học đã đóng góp là cung cấp nguồn sử liệu vật thật có giá trị khoa học chân xác, góp phần đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam. Tiêu biểu là Chương trình nghiên cứu khảo cổ học Trường Sa - Tây Nguyên - Nam Bộ.
“Có thể nói, những thành tựu nghiên cứu của Viện Khảo cổ học trong 50 năm qua không chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức lý luận mà đã trực tiếp góp phần bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa dân tộc và xây dựng thành công các hồ sơ Di sản Thế giới”, TS. Nguyễn Gia Đối nhấn mạnh.