Dịch Covid-19 có thể là động lực để tạo nên bước ngoặt lớn cho Việt Nam hoặc sẽ là niềm nuối tiếc lớn nếu bỏ lỡ việc xây dựng nền tảng số. (Nguồn: Báo Xây dựng) |
Tại Tọa đàm Chính sách Trực tuyến “Xây dựng các nền tảng số riêng của Việt Nam: Ý tưởng và tính khả thi” do Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) tổ chức sáng 21/4 ở Hà Nội, các chuyên gia cho rằng, kinh tế số nói chung và kinh tế nền tảng nói riêng được cho là trụ cột của xã hội tương lai. Năm 2020, thế giới đang chứng kiến nhiều biến động do đại dịch Covid-19 và nguy cơ khủng hoảng toàn cầu nhưng các nền tảng số như Amazon, eBay, Alibaba… không chỉ chống chọi tốt với bất ổn của thị trường mà còn có xu hướng phát triển nhanh và mạnh.
Một số nghiên cứu nhận thấy, tổ chức kinh doanh trên các nền tảng số hoặc khởi nghiệp trên các mô hình số sẽ là giải pháp cứu nguy cho nhiều doanh nghiệp, cá nhân trong cuộc chiến chưa biết hồi kết với đại dịch Covid-19.
Theo nghiên cứu của Tập đoàn Parker và cộng sự, khác với các mô hình truyền thống, các nền tảng số có thể thiết lập vị thế độc quyền nhờ tính quy mô về lượng cầu, nền tảng càng lớn thì càng có giá trị với người dùng, ví dụ đơn giản như Facebook, nền tảng chia sẻ thông tin, kết nối 2,45 tỷ người tham gia và 1,62 triệu người hoạt động mỗi ngày. Vì vậy, Facebook đã trở thành rào cản lớn để ngăn các nền tảng mới tham gia vào thị trường. Hoặc như Airbnb với 150 triệu người dùng trên 65.000 thành phố và khoảng 1,9 triệu cơ sở lưu trú hoạt động, sở hữu khối lượng thông tin khổng lồ mà ít có đối thủ nào trên thế giới có thể cạnh tranh được.
Báo cáo về nền kinh tế số Đông Nam Á của Google, Tamesek và Bain&Company năm 2019 cho thấy, kinh tế số của Việt Nam và Indonesia tăng trưởng dẫn đầu khu vực (khoảng 38%) và dự kiến có thể đạt mục tiêu 43 tỷ USD vào năm 2025. Trên thực tế, một số nền tảng số của người Việt đang manh nha hình thành, nhưng sự cạnh tranh là vô cùng khốc liệt bởi nhiều nền tảng nước ngoài đã có chi phí cận biên gần như bằng không và đang dần xác lập hiệu ứng mạng độc quyền tại Việt Nam.
Các chuyên gia nhận định, Việt Nam đã chứng kiến không ít những thành công và thất bại của các nền tảng số. Một số nền tảng có tốc độ phát triển nhanh và mạnh như Momo, dịch vụ ví điện tử tiếp cận hơn 10 triệu người dùng (năm 2018) và thành công gọi vốn trị giá trị hơn 100 triệu USD từ Warburg Pincus, đồng thời lọt top 100 công ty công nghệ tài chính lớn nhất toàn cầu. Hay Zalo - ứng dụng nhắn tin và gọi điện miễn phí tương tự như Whatssap đã chứng kiến doanh thu tăng trưởng ở mức 20% trong năm 2019 và lợi nhuận trước thuế tăng 1,5 lần lên mức 641 tỷ đồng.
Các đại biểu tại buổi Tạo đàm. (Ảnh chụp màn hình) |
Tuy nhiên, cũng không ít những tên tuổi xuất hiện đình đám nhưng nhanh chóng biến mất trên thị trường như Lotus, Gapo - mạng xã hội được kỳ vọng sẽ thay thế Facebook. Theo các chuyên gia, những nền tảng Việt xây dựng dựa trên mô hình của thế giới nếu không có tính sáng tạo đặc biệt sẽ không thể tham gia vào thị trường mà những “tay chơi ngoại quốc” đã chiếm vị trí độc tôn. Đơn cử như Facebook, Twitter đã được phát triển thân thiện với người dùng Việt, sở hữu lượng thông tin khổng lồ từ hàng tỷ người dùng qua nhiều năm, thì các nền tảng Việt tương tự sẽ trở nên kém cạnh tranh hơn.
Trong khi đó, Momo chiếm ưu thế hơn so với các nền tảng nước ngoài như Paypal vì hệ thống ngôn ngữ, giao diện gần gũi với người Việt, khả năng kết nối với nhiều ngân hàng nội địa thông qua hệ thống thẻ tín dụng mà phần đông người Việt sở hữu.
Tại Tọa đàm, các chuyên gia đều nhất trí rằng, nền tảng số mới vẫn có khả năng thành công nếu đảm bảo được tính khác biệt. Điển hình như Instagram, một nền tảng kết nối xã hội tương tự như Facebook, song cá biệt hóa mình bằng hình thức chia sẻ thông tin chủ yếu bằng hình ảnh hay như Tiktok thu hút tương tác qua các video độc đáo mà người sử dụng đăng lên.
Về ý tưởng để xây dựng nền tảng số riêng của Việt Nam, VEPR cho rằng, sẽ không có một mô hình chuẩn nào. Các nền tảng muốn vươn ra thế giới, trước hết nên đảm bảo sự sinh tồn tại thị trường nội địa. Thêm vào đó, để cạnh tranh với những nền tảng đã có sẵn với đông người sử dụng, không còn cách nào khác ngoài cách tăng tính khác biệt và tính nội địa hóa.
Theo nguyên Giám đốc Chương trình Nghiên cứu Trung Quốc thuộc VEPR TS. Phạm Sỹ Thành, nếu quyết tâm xây các nền tảng số "của người Việt, cho người Việt" như Lotus, Gapo giống như cách Trung Quốc đang xây dựng nền tảng số Wechat, Tiktok bằng cách ngăn chặn sự phát triển của Facebook, Twitter tại thị trường nội địa thì chúng ta có thể mất nguồn vốn lớn đổ vào doanh nghiệp do không vượt qua được hiệu ứng mạng độc quyền, làm xáo trộn các hoạt động thương mại, sản xuất sẵn có; cưỡng chế sự tự do lựa chọn của người sử dụng nền tảng.
Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, việc chấp nhận xây dựng nền tảng số “Made in Vietnam” sẽ tạo động lực cho sự sáng tạo và Việt Nam có thể làm chủ công nghệ.
Song khó khăn đặt ra là nếu so sánh với Trung Quốc, dân số và số lượng người sử dụng nền tảng xã hội Lotus, Gapo tương đối hạn chế, vì vậy, Việt Nam khó lòng có được thị trường nội địa để nuôi dưỡng các nền tảng số. Ngoài ra, sự tham gia tích cực của Việt Nam vào các Hiệp định thương mại với tư cách là nước đang phát triển cũng khó lòng cho phép cưỡng chế các nền tảng nước ngoài dừng hoạt động tại Việt Nam.