Trong khu vực ASEAN, các nước đã chú trọng phát triển CNNN là Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.
GS.VS. Nguyễn Văn Hiệu tham dự Hội nghị quốc tế về công nghệ nano tại Vũng Tàu |
Tại Indonesia, vào năm 2004 các nhà khoa học hàng đầu của nước này đã đề xuất với Bộ Nghiên cứu và Công nghệ quốc gia (SMRT) chủ trương đầu tư cho sự phát triển CNNN. Ngay năm sau, SMRT đã quyết định tổ chức thực hiện một chương trình nghiên cứu về CNNN. Chương trình đã tiếp tục được thực hiện cho đến nay và ngày càng phát triển.
Tại Malaysia, năm 2001, Bộ Khoa học, Công nghệ và Đổi mới (MOSTI) đã xếp hạng CNNN vào loại “nghiên cứu có tính chiến lược” trong kế hoạch nghiên cứu khoa học do MOSTI quản lý. Trong giai đoạn 2005 – 2008, MOSTI tổ chức thực hiện các đề tài nghiên cứu về CNNN dưới hình thức một lĩnh vực ưu tiên trong Chương trình khoa học cấp nhà nước do MOSTI quản lý. Từ năm 2012 đến nay, Malaysia xếp hạng các đề tài nghiên cứu về CNNN vào loại quan trọng tầm cỡ quốc gia. Hoạt động nghiên cứu về CNNN hiện nay được thực hiện tại các đơn vị thuộc trường Đại học Malaysia, trường Đại học Công nghệ Malaysia, trường Đại học Kebangsaan và Viện Nghiên cứu Công nghiệp và Tiêu chuẩn Malaysia (SIRIM).
Tại Philippines, từ năm 2004, Bộ Khoa học và Công nghệ (DOST) bắt đầu tài trợ cho đề tài nghiên cứu về CNNN. Năm 2008, DOST đã giao cho Hội đồng Nghiên cứu và Triển khai Khoa học tiên tiến và Công nghệ Philippines (PCASTRD) soạn thảo lộ trình phát triển CNNN trong giai đoạn 10 năm. Tháng 6/2009, PCASTRD soạn thảo xong lộ trình này, bao gồm kế hoạch xây dựng và phát triển sáu lĩnh vực khoa học và công nghệ về bán dẫn, nông nghiệp, công nghệ thông tin, năng lượng, y học và bảo vệ môi trường.
Trong số các nước ASEAN thì Singapore là quốc gia có khoa học và CNNN tiên tiến nhất. Hoạt động nghiên cứu về CNNN tại Singapore được tiến hành tại 14 đơn vị thuộc các trường đại học, trong đó có hai trường đại học chủ chốt là Đại học Quốc gia Singapore (NUS) và Đại học Công nghệ Nanyang (NTU). Các phòng thí nghiệm CNNN của NUS đạt trình độ hiện đại ngang tầm với các trường đại học có danh tiếng ở châu Âu, các giáo sư trong các phòng thí nghiệm đó đều có uy tín quốc tế cao. NUS có quan hệ hợp tác mật thiết với nhiều trường đại học có danh tiếng trên thế giới.
Tại Thái Lan, việc nghiên cứu về CNNN cũng được khởi động một vài năm sau khi Sáng kiến quốc gia về Công nghệ nano (NNI) của Hoa Kỳ được công bố năm 2000. Ngay từ thời kỳ đầu tiên, Bộ Khoa học và Công nghệ Thái Lan (NSTDA) đã thành lập Trung tâm CNNN quốc gia (NANOTEC) có sứ mạng làm hạt nhân cho hoạt động khoa học của mạng lưới các đơn vị nghiên cứu về CNNN trong các trường đại học trên toàn quốc.
So với nhiều nước trong khu vực ASEAN, Việt Nam bắt đầu nghiên cứu khoa học và công nghệ nano sớm hơn. Tại Hội nghị Vật lý chất rắn toàn quốc lần thứ II tại Đồ Sơn tháng 7/1997, Chủ tịch Hội Vật lý Việt Nam đã báo cáo về sự hình thành một hướng nghiên cứu mới đầy triển vọng trong vật lý chất rắn là vật lý nano và kêu gọi giới vật lý chất rắn nước ta hãy bắt đầu ngay việc nghiên cứu vật lý nano. Sau đó, theo kiến nghị của Hội Vật lý Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ đồng ý bổ sung chuyên ngành vật lý nano vào danh mục các chuyên ngành thuộc lĩnh vực vật lý trong Chương trình nghiên cứu cơ bản về khoa học tự nhiên.
Một vài năm sau, trong quá trình nghiên cứu về vật lý nano, các nhà vật lý lại nhận thức được rằng vật lý nano đã thâm nhập vào các lĩnh vực khoa học khác dẫn đến sự hình thành lĩnh vực đa ngành Khoa học và CNNN. Các nhà vật lý Việt Nam lại đi tiên phong kết hợp với các nhà khoa học thuộc các ngành khác nghiên cứu hóa học nano, công nghệ sinh học nano, điện tử nano, kết quả là lĩnh vực đa ngành Khoa học và CNNN bắt đầu hình thành ở nước ta.
Năm 2002, Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam tổ chức Hội nghị quốc tế về Vật lý nano và Công nghệ nano (International Workshop on Nanophysics and Nanotechnology) với sự tham gia đồng tổ chức của các cơ quan khoa học Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Đến năm 2004, theo kiến nghị của Hội Vật lý Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ quyết định mở thêm một lĩnh vực mới trong số các lĩnh vực khoa học thuộc Chương trình nghiên cứu cơ bản về Khoa học tự nhiên là lĩnh vực Khoa học và CNNN. Cũng trong năm đó, Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam tổ chức Hội nghị quốc tế về Khoa học vật liệu tiên tiến và Công nghệ nanô (International Workshop in Advanced Materials Science and Nanotechnology - IWAMSN) và coi đó là Hội nghị lần thứ hai. Từ đó đến nay, IWAMSN được tổ chức hai năm một lần, IWAMSN lần thứ bảy được tổ chức tại thành phố Hạ Long và Hội nghị lần thứ tám (IWAMSN 2016) sẽ diễn ra tại thành phố Đồng Hới.
Xen kẽ giữa hai IWAMSN tổ chức vào các năm chẵn, từ năm 2007, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội nghị quốc tế về Công nghệ nano và Ứng dụng (IWNA), đến năm 2015 đã tổ chức năm lần.
Đó là hai loạt hội nghị quốc tế lớn, IWAMSN 2014 có khoảng 500 nhà khoa học tham gia, trong đó có khoảng 180 nhà khoa học nước ngoài, IWNA 2015 có gần 200 nhà khoa học tham gia, trong đó có gần 50 nhà khoa học nước ngoài. Hai loạt hội nghị nói trên có sự tham gia đồng tổ chức của hai tổ chức khoa học cấp quốc gia của hai nước tiên tiến trên thế giới: IWAMSN có sự tham gia đồng tổ chức của Viện Khoa học vật liệu quốc gia của Nhật Bản (NIMS), IWNA có sự tham gia đồng tổ chức của Chương trình quốc gia về công nghệ micro và nano của Pháp MINATEC. Trong khu vực các nước ASEAN, đây là hai loạt hội nghị quốc tế lớn nhất về CNNN và có truyền thống liên tục hàng chục năm, chưa hề có ở các nước ASEAN khác.
Trong khi sự hợp tác về khoa học và CNNN của nước ta với các nước tiên tiến trên thế giới sôi động như vậy thì ngược lại, sự hợp tác giữa nước ta với các nước ASEAN lại gần như chưa có gì, ngoài sự hợp tác còn nhỏ bé của chúng ta với các bạn Lào và Campuchia.
Hy vọng rằng sự hình thành Cộng đồng ASEAN sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự hợp tác về CNNN giữa nước ta với các nước ASEAN, từng bước tiến tới sự hình thành Cộng đồng khoa học ASEAN về CNNN.
Công nghệ nano là loại công nghệ sử dụng kỹ thuật phân tử để xử lý những yếu tố mang tính chất siêu vi mô. Nói cách khác, CNNN được coi là công nghệ siêu nhỏ. Thậm chí, chúng được sử dụng chỉ với tỷ lệ bằng 1/80.000 so với bề dày của một sợi tóc. Với rất nhiều ứng dụng trong y học, điện tử, may mặc, thực phẩm.., CNNN được coi như một bước ngoặt của khoa học kỹ thuật thế giới. |
GS.VS Nguyễn Văn Hiệu
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam