Lưu ý doanh nghiệp khi vào thị trường Nhật Bản
Theo ông Tạ Đức Minh, Tham tán Việt Nam tại thị trường Nhật Bản, năm 2022, đồng Yên yếu, cùng với giá dầu tăng cao do ảnh hưởng của xung đột Nga-Ukraina, chính sách Zero Covid của Trung Quốc khiến chi phí sản xuất tăng, dẫn đến những mặt hàng thiết yếu của Nhật Bản cũng lên giá, ảnh hưởng đến việc chi tiêu của các hộ gia đình.
Hiện hàng hóa nhập khẩu chiếm 34% (đồ gia dụng và nội thất), gần 50% (thực phẩm, quần áo và các mặt hàng tiêu dùng khác) trong mỗi gia đình người Nhật. Về lâu dài, theo tính toán, người tiêu dùng Nhật Bản sẽ ngày càng phụ thuộc hơn vào hàng nhập khẩu. Trong đó, người Nhật sẽ ưu tiên lựa chọn các sản phẩm có giá rẻ hơn nhưng có chất lượng và công dụng gần tương tự như nhau.
Để tận dụng cơ hội xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản, doanh nghiệp Việt cần lưu ý một số vấn đề trước khi tiếp cận thị trường khó tính này.
Nhật Bản là một trong những quốc gia có tiêu chuẩn chất lượng với hàng nhập khẩu khắt khe nhất thế giới. (Nguồn: Báo Công Thương) |
Ông Tạ Đức Minh lưu ý, đây là cơ hội cho Việt Nam nếu như hàng Việt Nam đảm bảo được chất lượng tương đương nhưng có giá bán thấp hơn hàng hóa của các nước khác nhập khẩu vào Nhật Bản; hoặc Việt Nam cung cấp được các mặt hàng có thể thay thế cho sản phẩm nội địa của Nhật Bản.
Cơ hội đang mở ra là khá lớn, tuy nhiên để gia tăng thị phần tại Nhật Bản, doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý:
Trước hết, Nhật Bản là một trong những quốc gia có tiêu chuẩn chất lượng với hàng nhập khẩu khắt khe nhất thế giới.
Đối với hàng nông, lâm, thủy sản phải đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm dịch động thực vật, và đòi hỏi phải được sản xuất, nuôi trồng theo các tiêu chuẩn GAP, HACCP hay JAS - Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật; trong khi hàng công nghiệp cần phải đáp ứng điều kiện về quy cách sản phẩm, quy chuẩn kỹ thuật, quy định ghi nhãn hay các quy định ghi trong JIS - Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản…
Tin liên quan |
Đại sứ ‘bật mí’ nghệ thuật chinh phục thị trường |
Các lô hàng vi phạm quy định về chất lượng sẽ bị tiêu hủy hoặc trả lại, đồng thời hải quan Nhật Bản sẽ tăng tần suất và mức độ kiểm tra hàng hóa trong những lần sau, có thể gây ra nhiều phiền phức và làm tăng chi phí cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Thứ hai, hệ thống phân phối hàng hóa tại Nhật Bản nổi tiếng phức tạp với nhiều tầng cấp khác nhau và các chức năng riêng biệt.
Đơn cử, hầu như mọi chuỗi siêu thị của Nhật Bản không nhập khẩu hàng trực tiếp từ nhà cung ứng nước ngoài, mà mua qua các đầu mối nhập khẩu lớn. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài phải thiết lập được mối quan hệ tốt với các đầu mối nhập khẩu lớn của Nhật Bản.
Thực tế, doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu xuất khẩu cho các công ty thương mại và các nhà bán buôn Nhật Bản. Việc tiếp cận các kênh khác như hệ thống cửa hàng bán lẻ, các nhà chế biến công nghiệp còn rất hạn chế. Hầu hết các công ty Việt Nam hiện chưa có hệ thống đại diện hoặc chi nhánh tại thị trường Nhật Bản.
Thứ ba, thị hiếu tiêu dùng và văn hóa kinh doanh của người Nhật rất đặc thù. Khi mua hàng thì chất lượng là yếu tố được người dân Nhật Bản quan tâm nhất. Do hàng hóa nội địa của Nhật có chất lượng cao, nên tâm lý tiêu dùng của người Nhật luôn đòi hỏi các sản phẩm (kể cả các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài) phải có chất lượng tốt.
Bên cạnh đó, người Nhật cũng rất chú trọng đến giá cả, mẫu mã, kích thước, màu sắc, công dụng… của sản phẩm.
Chính vì vậy, doanh nghiệp nước ngoài muốn có chỗ đứng tại thị trường Nhật Bản cần tìm hiểu thị hiếu của người tiêu dùng nước này, từ đó đa dạng hóa mẫu mã, hình thức sản phẩm, song song với với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành.
Thứ tư, về văn hóa kinh doanh, khi gặp gỡ đối tác Nhật Bản lần đầu tiên, doanh nghiệp Việt Nam cần mang theo danh thiếp, catalogue, hồ sơ giới thiệu công ty, hàng mẫu… Cần đảm bảo đúng giờ và giữ lời khi đã hứa hẹn một việc gì đó với đối tác. Thông thường, thiết lập quan hệ hợp tác kinh doanh với doanh nghiệp Nhật Bản không hề đơn giản, nhiều trường hợp phải có sự giới thiệu của bên thứ 3 uy tín thì doanh nghiệp Nhật mới tin tưởng.
Khi đã có được mối quan hệ làm ăn với đối tác Nhật Bản, doanh nghiệp cần chú trọng duy trì mối quan hệ đó một cách lâu dài, bền vững.
Trong quá trình đàm phán/trao đổi, đối tác Nhật Bản có thể đưa ra các yêu cầu như thay đổi mẫu mã hoặc kích thước sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu của người Nhật.... doanh nghiệp Việt Nam nên cố gắng tích cực đáp ứng những yêu cầu đó. Nếu những đòi hỏi phía đối tác đưa ra quá khắt khe, doanh nghiệp Việt Nam có thể trao đổi lại cụ thể để tìm ra phương hướng giải quyết phù hợp nhất.
Thực tế cho thấy, doanh nghiệp nỗ lực để xuất khẩu được hàng hóa vào thị trường Nhật Bản giống như một mũi tên trúng hai đích. Bởi nếu chất lượng của một sản phẩm đã được thị trường Nhật Bản chấp thuận thì sản phẩm đó hoàn toàn có thể cạnh tranh tốt được ở các thị trường khác.
Bên cạnh những đặc điểm kể trên, khi thực hiện xuất khẩu sang Nhật Bản, doanh nghiệp Việt cần tận dụng các cam kết cắt giảm thuế trong các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam và Nhật Bản cùng là thành viên như: Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)…
EU sửa đổi loạt quy định về thực phẩm nhập khẩu
Thương vụ Việt Nam tại Thuỵ Điển, kiêm nhiệm Bắc Âu thông tin, vừa qua, EU sửa đổi loạt quy định về thực phẩm nhập khẩu.
Cụ thể, EU sửa đổi quy định về mức dư lượng tối đa đối với flutianil trong và trên một số sản phẩm.
Ngày 7/4, Uỷ ban châu Âu ban hành Quy định số (EU) 2022/566 sửa đổi phụ lục II của Quy định (EC) số 396/2005 về mức dư lượng tối đa đối với flutianil trong hoặc trên các sản phẩm nhất định như trái cây tươi và đông lạnh, các loại hạt; rau tươi và đông lạnh; dầu và trái cây có dầu; trà, cà phê, thảo dược và cacao; các loại gia vị; các sản phẩm có nguồn gốc động vật.
Ngày 12/4, EU ban hành Quy định số (EU) 2022/617 về việc sửa đổi quy định (EC) số 1881/2006 về mức thuỷ ngân tối đa trong cá và muối. Theo đó, hàm lượng thuỷ ngân trong cá từ mức 0,3 đến 1,0 - tuỳ thuộc vào loại cá và hàm lượng thuỷ ngân trong muối ở mức 0,10.
Ngày 13/4/2022, Uỷ ban châu Âu ban hành Quy định (EU) 2022/634 sửa đổi Quy định (EU) 37/2010 liên quan đến việc phân loại chất bambermycin và giới hạn dư lượng tối đa của nó trong thực phẩm có nguồn gốc động vật.
Ngày 20/4, Uỷ ban châu Âu ban hành Quy định số (EU) 2022/650 về việc sửa đổi Phụ lục của Quy định (EU) 231/2012 quy định các thông số kỹ thuật cho các chất phụ gia thực phẩm được liệt kê trong Phụ lục II và III của Quy định (EC) số 1333/2008 liên quan đến thông số kỹ thuật đối với natri diacetate (E262).
Đây là những quy định doanh nghiệp xuất khẩu thực phẩm sang EU cần nắm bắt để đảm bảo duy trì hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình.
Sầu riêng Việt Nam khi nào được xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc?
Ngày 23/5, Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) cho biết đơn vị vừa có cuộc họp trực tuyến với Cục Kiểm dịch thực vật và động vật (Tổng cục Hải quan Trung Quốc) về vấn đề phê duyệt, kiểm dịch đối với trái cây sang thị trường Trung Quốc, đặc biệt là sầu riêng và chanh leo.
Ông Hoàng Trung - Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật cho rằng trong những năm gần đây, sự hợp tác giữa cơ quan kiểm dịch của Việt Nam và Trung Quốc rất hiệu quả, thường xuyên, góp phần thúc đẩy xuất nhập khẩu nông sản.
"Đối với sầu riêng, đây là loại quả mà hai bên đã có quá trình đàm phán lâu dài với nhiều phiên thảo luận, thống nhất về các vấn đề kỹ thuật, quản lý rủi ro dịch hại và đã dự thảo nghị định thư. Bởi vậy chúng tôi mong phía Trung Quốc sẽ sớm ký kết chính thức nghị định thư này để có bước tiếp theo xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc", ông Trung nhấn mạnh.
"Bao giờ nghị định thư về xuất khẩu sầu riêng có thể ký kết được, vì phía Việt Nam đã hoàn thiện các thủ tục?", Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật đặt câu hỏi với Cục Kiểm dịch thực vật và động vật Trung Quốc.
Theo ông Trung, Cục đã gửi hồ sơ của 33 vùng trồng, 30 cơ sở đóng gói theo yêu cầu của Tổng cục Hải quan Trung Quốc, trong số này có nhiều đơn vị đã được phía Trung Quốc kiểm tra trực tuyến.
"Đặc biệt, tháng 7 đến tháng 10 hằng năm là thời gian thu hoạch sầu riêng rộ nhất, nên rất mong Cục Kiểm dịch thực vật và động vật đôn đốc các cơ quan hữu quan phía Trung Quốc để hai bên có thể ký kết trước tháng 7 năm nay", ông Trung nói.
Tin liên quan |
Đề xuất 4 giải pháp hỗ trợ xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc |
Đối với kiến nghị của phía Việt Nam, ông Vương Ích Ngu - Phó Cục trưởng Cục Kiểm dịch thực vật và động vật Trung Quốc cho biết người Trung Quốc rất thích ăn sầu riêng nhưng hiện nay sầu riêng chủ yếu được nhập từ Thái Lan.
Hiện nay, hồ sơ liên quan đến cấp phép xuất khẩu sầu riêng Việt Nam sang thị trường Trung Quốc đang được Tổng cục Hải quan xin ý kiến các cơ quan nhà nước và các cơ quan pháp luật có liên quan. Sau đó, Cục Kiểm dịch thực vật và động vật sẽ tổng hợp và thông báo cho Việt Nam về ngày ký kết nghị định thư.
"Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để hai bên tổ chức lễ ký kết sớm nhất có thể", ông Vương Ích Ngu nói.
Cũng theo ông Vương Ích Ngu, đối với quả chanh leo, hai bên đã có thỏa thuận về việc tạm thời cho phép xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.
Do đó, phía Trung Quốc rất cần Cục Bảo vệ thực vật cho ý kiến phản hồi về dự thảo hướng dẫn tạm thời xuất khẩu chanh leo. Sau khi đã được phép xuất khẩu tạm thời sang Trung Quốc, Cục Kiểm dịch thực vật và động vật sẽ kiểm tra và kiểm soát chất lượng tại cửa khẩu, nếu các lô hàng đạt yêu cầu thì sẽ mở rộng các cửa khẩu được phép thông quan.
Việt Nam có thêm cơ sở chiếu xạ quả tươi xuất khẩu đi Mỹ
Ông Hoàng Trung - Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật thông tin, Cơ quan Kiểm dịch động thực vật Mỹ (APHIS) vừa chính thức công nhận Công ty TNHH Chiếu xạ Toàn Phát (tại tỉnh Long An) đáp ứng đầy đủ các điều kiện, tiêu chuẩn xử lý chiếu xạ quả tươi Việt Nam để xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Với hai cơ sở chiếu xạ được phía Mỹ cho phép là: Công ty cổ phần chế biến thuỷ hải sản Sơn Sơn - đơn vị quản lý Nhà máy Chiếu xạ Sơn Sơn (TP. Hồ Chí Minh) và Công ty TNHH Chiếu xạ Toàn Phát, tổng công suất chiếu xạ trái cây tươi của Việt Nam được nâng lên 30.000 tấn/năm. Điều này đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu quả tươi của Việt Nam vào thị trường Mỹ trong thời gian tới.
Ông Vương Đình Khoát, Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Chiếu xạ Toàn Phát cho biết, công ty đã đầu tư 10 triệu USD để xây dựng nhà máy chiếu xạ quả tươi tại Long An. Nhà máy có quy mô chiếu xạ 10.000 tấn/năm.
Trực tiếp kiểm tra tại cơ sở chiếu xạ, các chuyên gia của APHIS đánh giá nhà máy chiếu xạ của Công ty TNHH Chiếu xạ Toàn Phát sạch sẽ, hiện đại, đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn như đã nộp hồ sơ đăng ký với Mỹ.
Chuyên gia Mỹ kiểm tra quy trình chiếu xạ của Công ty Toàn Phát. (Nguồn: Báo Nông nghiệp) |
Trên cơ sở đó, ngày 17/5, đoàn công tác của APHIS đã chính thức cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện chiếu xạ trái cây đi Mỹ cho Công ty TNHH Chiếu xạ Toàn Phát.
"Theo hợp đồng ký với phía Mỹ, trong tháng 9/2022 sẽ bắt đầu chiếu xạ lô quả tươi đầu tiên để xuất khẩu đi Mỹ" - ông Khoát nói và cho biết dịch vụ chiếu xạ của công ty sẽ có sự cạnh tranh về giá để người tiêu dùng được hưởng lợi.
Cùng với nhà máy chiếu xạ, phía công ty cũng đã xây dựng kho lạnh với sức chứa 10.000 tấn kèm ngay bên cạnh để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
Ông Khoát nhận định, ở thời điểm hiện tại trái cây tươi Việt Nam xuất khẩu đi Mỹ đang bị hạn chế do chi phí logistics (vận chuyển đường biển, đường hàng không) cao quá mức, dẫn tới chi phí đưa trái cây tươi của Việt Nam sang Mỹ và giá bán cho người tiêu dùng quá cao. Điều này đã làm giảm sức mua của thị trường Mỹ.
"Khi nào chi phí vận chuyển kiểm soát được, giá giảm xuống như mặt bằng trước đây hoặc cao hơn mặt bằng trước khoảng 10-20% thì lúc đó sức mua bên thị trường Mỹ sẽ tăng hơn nhiều", ông Khoát nói.
Ông Lê Sơn Hà, Trưởng phòng Kiểm dịch thực vật, Cục Bảo vệ thực vật cho biết, xử lý chiếu xạ là yêu cầu bắt buộc theo quy định kiểm dịch thực vật của Mỹ nếu muốn xuất khẩu quả tươi vào thị trường này. Việc chiếu xạ đối với các quả tươi nhằm diệt trừ các côn trùng là đối tượng kiểm dịch thực vật của Mỹ đi theo quả tươi nhập sang Mỹ.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, trong 4 tháng đầu năm nay, Mỹ vẫn là thị trường lớn nhất của nông lâm thủy sản Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu đạt gần 4,9 tỷ USD, chiếm 27,3%. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu rau quả tiếp tục tăng khá so với cùng kỳ.
Đến nay, 6 loại trái cây tươi đã chính thức được cấp phép xuất khẩu sang Mỹ gồm: thanh long, chôm chôm, nhãn, vải, vú sữa, xoài. Sắp tới, bưởi sẽ là loại trái cây thứ 7 của nước ta xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Thương vụ Việt Nam tại Mỹ đánh giá, Mỹ là thị trường tiềm năng của trái cây Việt khi có tới hơn 330 triệu khách hàng với thu nhập đầu người cao và xu hướng ẩm thực ngày càng chú trọng thành phần rau, quả. Sản xuất trái cây tươi nội địa của Mỹ hiện chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu, 30% còn lại (tương đương với khoảng 3,6 triệu tấn) là phải nhập khẩu. Đây sẽ là dư địa và cơ hội rất lớn cho trái cây Việt Nam.
| Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến tiêu thụ xoài và nông sản Việt Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Côn Minh đã vận động và mở được 4 điểm cầu lần lượt tại Côn Minh, Hà Khẩu, ... |
| Đơn hàng tỷ USD dồn dập, doanh nghiệp dệt may vẫn kêu khó Từ đầu năm, ngành dệt may được dự báo sẽ có bước tăng trưởng mạnh mẽ nhờ các yếu tố phục hồi từ các thị ... |