Đồ điện tử, đặc biệt là các sản phẩm điện thoại di động chiếm tới 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của Ấn Độ. |
Theo tác giả Sunil Jain, năm 1990, tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm 13% so với lượng xuất khẩu của Ấn Độ. Nhưng chỉ 10 năm sau, con số này đã tăng lên 34% và đạt 75% vào năm 2018. Tác giả dự báo với tốc độ phát triển như vũ bão, Việt Nam thậm chí có thể vượt xa Ấn Độ trong vài năm tới.
Theo tác giả, vào thời điểm nền kinh tế Ấn Độ đang biến động, bên cạnh hoạt động đầu tư và tiêu dùng, tăng trưởng xuất khẩu nhanh chóng là cách duy nhất thoát khỏi tình trạng trì trệ chung toàn cầu. Do đó, Sunil Jain cho rằng Ấn Độ nên học hỏi, tham khảo kinh nghiệm của Việt Nam trong việc duy trì và thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu.
Khi Trung Quốc bắt đầu từ bỏ thị trường dệt may và chuyển sang xuất khẩu sản phẩm mang lại giá trị cao hơn, chính các nước như Việt Nam và Bangladesh đã tận dụng tối đa cơ hội này. Ngày nay, khi các nhà sản xuất điện tử lớn, bao gồm cả những tập đoàn chuyên về điện thoại di động khi quyết định chuyển một phần sản xuất ra khỏi Trung Quốc, một lần nữa lại chọn Việt Nam là điểm đến, hướng đi mới cho các sản phẩm này.
Cách mà Việt Nam đạt được những thành tựu đáng khích lệ này chính là tăng cường tự do hóa mạnh mẽ, mở cửa nền kinh tế bằng cách cắt giảm và ưu tiên thuế quan cũng như thu hút đầu tư nước ngoài.
Năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN và tiến hành ký kết FTA với Mỹ vào năm 2000. Đến năm 2018, Việt Nam gia nhập Hiệp định CPTPP. Ngày nay, mức thuế của Việt Nam đang ở mức thấp nhất thế giới. Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực hết mình để đảm bảo các yếu tố thuận lợi từ chính sách thu hút đầu tư đến các ưu đãi, phát triển cơ sở hạ tầng nhằm tăng cường lôi kéo các nhà đầu tư.
Tác giả đã trích dẫn thông tin từ Cổng thông tin điện tử Chính phủ Việt Nam cho biết năm 2018, tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là 71%. Rất nhiều công ty toàn cầu muốn thiết lập cơ sở sản xuất, chế biến tại Việt Nam và đẩy mạnh đầu tư mở rộng dây chuyền, trang thiết bị công nghệ ở đây.
Năm 2010, xuất khẩu hàng dệt may và giày dép chiếm 22% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như thủy hải sản, gạo, dầu thô, cao su và gỗ chiếm 26% tổng sản lượng xuất khẩu, trong khi điện tử chỉ chiếm 4%.
Đến năm 2018, tỷ trọng hàng dệt may giảm xuống còn 19%, các lĩnh vực mũi nhọn truyền thống giảm xuống chỉ còn chiếm 10%, trong khi đồ điện tử, đặc biệt là các sản phẩm điện thoại di động chiếm tới 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu.
Trong khi đó, tỷ trọng xuất khẩu của Ấn Độ ở lĩnh vực sản xuất điện thoại di động là rất nhỏ. Mặc dù lượng điện thoại sản xuất ở Việt Nam chỉ bằng khoảng 1/4 so với Ấn Độ vào cuối năm 2010, nhưng mức sản xuất ngày nay gần như đã tương đương dù giá mỗi chiếc điện thoại Việt Nam cao hơn nhiều.
Do phần lớn xuất khẩu điện thoại thông minh được sản xuất bởi 4 hoặc 5 gã khổng lồ công nghệ lớn, (chẳng hạn, chỉ riêng Apple và Samsung đã chiếm khoảng 60% tổng doanh số điện thoại thông minh trên toàn thế giới) nên theo tác giả Sunil Jain tất cả những gì chính phủ Ấn Độ cần làm là đảm bảo thu hút làn sóng dịch chuyển hoạt động sản xuất của các công ty này từ Trung Quốc sang Ấn Độ. Ngay hiện tại, dù điện thoại di động được “lắp ráp” hay “không thực sự ‘Made in India’”, tại Ấn Độ, kể cả khi lượng sản xuất điện thoại tăng, kim ngạch nhập khẩu cũng đang tăng lên mức đáng báo động; trong 5-6 năm tới, đây có thể là mặt hàng nhập khẩu lớn thứ hai của Ấn Độ.
Ngoài thực tế, Việt Nam không chỉ cung cấp cơ sở hạ tầng với chất lượng tốt nhất cho giới đầu tư, trong khi thuế suất doanh nghiệp áp dụng cho các nhà máy sản xuất lớn ở Việt Nam chỉ dao động từ 10 - 20%, tỷ lệ này ở Ấn Độ là 43,68%. Nhiều doanh nghiệp thậm chí còn phải chịu mức thuế suất cao hơn. Hiện 70-75% giao dịch thương mại toàn cầu diễn ra thông qua chuỗi giá trị do các công ty đa quốc gia quản lý, nếu Ấn Độ không phải là một phần của hệ thống này, đối với hầu hết các nhà sản xuất, không chỉ tính riêng điện thoại di động hay điện tử mà xuất khẩu của quốc gia này cũng khó được cải thiện, Sunil Jain nhận định.